Phụ nữ dự định mang thai có cần uống sắt và acid folic?

Tôi năm nay 36 tuổi, đã có một con trai. Hiện vợ chồng tôi đang dự định sinh cháu thứ hai. Qua tìm hiểu thông tin tôi được biết là phụ nữ dự định mang thai nên bổ sung sắt và acid folic. Vậy xin báo tư vấn cho tôi có nên uống thuốc không và uống như thế nào. Xin chân thành cảm ơn!

Nguyễn Thị Hạnh (Đồng Nai)

Rau xanh thẫm chứa nhiều acid folic.

Để sinh ra được những đứa con khỏe mạnh, thông minh, người mẹ cần phải bổ sung các chất dinh dưỡng cần thiết từ trước khi mang thai bằng chế độ ăn uống hoặc thuốc. Nhiều khi đợi có thai mới bổ sung thì đã muộn, nhất là với acid folic thì lại càng phải bổ sung sớm từ trước khi có thai 3 tháng.

Acid folic hay còn gọi là vitamin B9 cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào của người, động vật, thực vật và cần thiết cho sự hình thành của tế bào máu. Nhu cầu acid folic đối với người bình thường là 180 - 200mcg/ngày, nhưng với phụ nữ mang thai tăng lên 400mcg/ngày để đáp ứng sự gia tăng của quá trình phân chia tế bào cũng như tăng kích thước của tử cung, cần cho sự tổng hợp nhân tế bào và protein, hình thành rau thai, tăng trưởng của bào thai và do tăng thải folat qua nước tiểu trong khi mang thai. Nếu bị thiếu acid folic trong khi mang thai thì bà mẹ có thể bị thiếu máu hồng cầu khổng lồ, nguy cơ sảy thai cao, sinh non, suy dinh dưỡng bào thai và điều quan trọng nhất là sinh ra đứa con bị khuyết tật của ống thần kinh (nứt đốt sống, não úng thủy, thai vô sọ). Sự khuyết tật của ống thần kinh thường xảy ra vào ngày thứ 28 sau khi thụ thai. Do vậy phải bổ sung acid folic từ trước khi thụ thai mới có hiệu quả dự phòng khuyết tật ống thần kinh cho thai nhi, nồng độ acid folic phải bảo đảm đủ cao vào thời điểm thụ thai. Các nhà khoa học khuyến cáo tất cả phụ nữ dự định mang thai phải bắt đầu bổ sung đủ acid folic 3 tháng trước thời điểm dự định có thai bằng chế độ ăn uống các thực phẩm giàu acid folic hoặc uống thuốc.

Chị có thể ăn nhiều các loại thực phẩm giàu acid folic như: gan động vật (lợn, gà, bò), các loại rau lá màu xanh thẫm: rau muống, rau ngót, rau súp lơ xanh... hoặc bổ sung bằng dạng thuốc uống với liều 400mcg acid folic/ngày trước khi mang thai ít nhất là 3 tháng và uống kèm với viên sắt từ khi phát hiện có thai đến sau sinh 1 tháng. Nên chọn loại có chứa 60mg sắt nguyên tố và 400mcg acid folic. Chúc chị mạnh khỏe và sinh được cháu bé như mong muốn!

ThS. Lê Thị Hải (Viện Dinh dưỡng quốc gia)

Một số bệnh mạn tính và thai nghén – Kỳ III

Bệnh đái tháo đường trong thời gian mang thai

Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) trong thời gian mang thai là thể bệnh xảy ra khi có thai, với tỷ lệ khoảng 4% tổng số phụ nữ có thai, thường bắt đầu vào tháng thứ 5 - 6 của thai nghén (giữa tuần lễ thứ 24 - 28). Trong hầu hết các trường hợp, bệnh qua đi sau khi đã sinh con. Mức đường huyết cao trong máu, có hại cho cả mẹ và thai. Khi bị bệnh ĐTĐ, cơ thể không thể sử dụng được đường (glucoza) trong máu cũng như mức đường huyết trở nên cao hơn bình thường.

Những yếu tố nguy cơ phát triển bệnh ĐTĐ trong thời gian mang thai:

- Béo phì: chỉ số khối lượng cơ thể (BMI) từ 30 trở lên.

- Tiền sử gia đình có bệnh ĐTĐ týp 2.

- Phụ nữ từ 35 tuổi trở lên mới có thai.

- Nếu lần trước đã sinh con to (khoảng từ 3,7-4,5kg).

- Có cao huyết áp.

- Có yếu tố chủng tộc: ví dụ người Mỹ gốc Tây Ban Nha, gốc Phi, thổ dân Mỹ, người dân ở Đông hay Nam Á, ở các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương.

Việc chăm sóc trước sinh có ý nghĩa quan trọng với phụ nữ mang thai, nhất là với những phụ nữ đã có yếu tố nguy cơ bị bệnh ĐTĐ khi mang thai.

Bệnh ĐTĐ khi có thai cần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo sự an toàn, lành mạnh cho cả mẹ và con.

Nếu không được điều trị thì thai sẽ dễ có bệnh ngay khi sinh ra như có mức đường huyết thấp, vàng da hoặc có cân nặng hơn bình thường.

Sức khỏe của người mẹ cũng bị ảnh hưởng, có thể sinh khó hoặc phải mổ lấy thai nếu con quá to.

Người phụ nữ bị ĐTĐ khi có thai cần theo chế độ ăn do thầy thuốc yêu cầu chẳng hạn: kiêng đồ ngọt như: bánh ngọt, kẹo, kem... mà chỉ nên ăn những thứ có đường tự nhiên như hoa quả. Nếu thấy đói giữa các bữa ăn chính thì chỉ nên ăn hoa quả, cà rốt... đường có trong bánh mì, cơm, khoai tây và hoa quả tốt cho cả mẹ và con. Chế độ ăn cũng cần cân đối và mỗi bữa ăn, không nên ăn nhiều, chỉ vừa đủ cho sự tăng cân khi có thai, thầy thuốc sẽ có hướng dẫn cụ thể.

 Ảnh: Gettyimages.com
Vận động thân thể đều đặn, phù hợp với sức khỏe là cần thiết và an toàn cho cả mẹ và thai. Hãy bắt đầu tập vận động từ 5-10 phút trở lên, nếu thấy khỏe thì tăng lên 30 phút hoặc hơn cho mỗi buổi tập. Buổi tập càng dài thì mức đường huyết càng được kiểm soát tốt và luôn thử máu để kiểm tra mức đường huyết và cần dùng cả thuốc để giữ cho đường huyết ổn định. Cũng cần thận trọng với cường độ luyện tập: đừng tập quá nặng hoặc bị nóng quá, tùy theo tuổi tác, không nên để mạch nhanh quá 140 - 160 mỗi phút trong lúc luyện tập; nếu cảm thấy chóng mặt hoặc đau lưng hoặc đau ở đâu đó trong khi tập thì nên ngừng và báo cho thầy thuốc biết. Nếu có cơn co tử cung, ra máu âm đạo hoặc thấy ra nước ối thì cần đến bệnh viện ngay.

Xét nghiệm đường huyết đều đặn giúp cho thầy thuốc biết chế độ ăn và luyện tập có làm cho mức đường huyết ổn định không.

Phải mất vài tuần sau sinh thì bệnh ĐTĐ mới qua đi. Để biết chắc bệnh đã qua, sau sinh 1-2 tháng, thầy thuốc sẽ cho làm một xét nghiệm máu đặc biệt khác nữa. Ngay cả khi bệnh ĐTĐ đã lui sau sinh, việc vận động, theo dõi cân nặng và theo một chế độ ăn lành mạnh vẫn cần tiếp tục. Có như thế thì mới hy vọng không bị ĐTĐsau này.

Bệnh mụn giộp và thai nghén

Khi nào dễ bị nhiễm bệnh mụn giộp?

Khi hệ thống miễn dịch suy yếu, không thể chống đỡ có hiệu quả trước sự xâm nhập của virus. Khi hệ miễn dịch chưa trưởng thành: một số trường hợp, sự tiếp xúc với bệnh mụn giộp có thể đe dọa nghiêm trọng sức khỏe thai nhi và trẻ trong năm đầu tiên.

Lây nhiễm virus mụn giộp khi mang thai và khi sinh: những nguy cơ lây nhiễm cho mẹ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thời điểm người mẹ bị nhiễm virus lần đầu, tần suất các đợt bùng phát, người phụ nữ mang thai có biết mình đã nhiễm virus mụn giộp hay không vì có khi không thấy biểu hiện gì.

Nếu người phụ nữ tiếp xúc lần đầu với virus mụn giộp từ trước khi có thai: trong trường hợp này, nguy cơ thai bị nhiễm virus thực sự đáng ngại. Có thể hạn chế được nguy cơ nếu thầy thuốc sản khoa biết rõ tiền sử bệnh của cha mẹ, để có các biện pháp phòng ngừa và điều trị cần thiết ngay từ khi có thai và khi chuyển dạ. Cũng có khi cần chỉ định mổ lấy thai.

Nếu người phụ nữ tiếp xúc lần đầu với virus mụn giộp trong thời gian mang thai: dù rất hiếm nhưng trong trường hợp này thì nguy cơ lây nhiễm cho con khi chuyển dạ rất lớn và có thể nghiêm trọng cho trẻ sơ sinh. Cần nhận biết đợt bùng phát đầu tiên khi đang mang thai để báo cho thầy thuốc biết. Thực hành mọi biện pháp thận trọng khi sinh và trẻ sơ sinh có thể phải được điều trị ngay từ khi sinh ra.

Nếu không bao giờ có đợt bùng phát mụn giộp: cũng chưa thể loại trừ nguy cơ, vì một số người tuy đã bị nhiễm virus mụn giộp nhưng không bao giờ bộc lộ triệu chứng. Vẫn có những đợt virus phát tán nhưng không có dấu hiệu nào; dù không có triệu chứng nhưng nguy cơ lây nhiễm từ mẹ sang con vẫn có thể xảy ra. Trẻ sơ sinh có tổn thương của bệnh mụn giộp có nghĩa là mẹ đã bị mụn giộp sinh dục. Chẩn đoán trẻ sơ sinh bị bệnh mụn giộp được tiến hành rất nhanh và trẻ cần được điều trị ngay.

Làm thế nào để giảm nguy cơ lây nhiễm khi đang mang thai?

Nếu như đã có những đợt bùng phát bệnh mụn giộp ở vợ và chồng: cần để ý và báo cho thầy thuốc mọi hiện tượng đau dù ít ở cơ quan sinh dục (ngứa, cảm giác bỏng rát, nhoi nhói như kim châm, hay chỉ thấy khó chịu nhưng dễ tái diễn). Ngừng quan hệ tình dục trong thời gian có bùng phát, nhất là theo đường miệng nếu một trong 2 bạn tình có nốt ngứa nghi ngờ.

Nếu không bao giờ có đợt bùng phát ở cặp vợ chồng: nên nhớ rằng luôn có nguy cơ ngay dù 1 trong 2 người không bao giờ có biểu hiện bị mụn giộp sinh dục. Khi không có tiền sử và/hoặc không có dấu hiệu mụn giộp sinh dục cũng chưa thể yên tâm, vì ngày nay chưa có các phương tiện phát hiện bệnh có hiệu quả. Cách phòng ngừa duy nhất để ngăn chặn sự lây nhiễm virus có thể xảy ra là dùng bao cao su khi quan hệ tình dục trong 2 tháng cuối của thai nghén.

Cách nhận biết đợt bùng phát bệnh mụn giộp? Dù thai nghén ở giai đoạn nào mà thấy ngứa, bỏng rát, cảm giác nhoi nhói như kim châm ở vùng âm hộ và âm đạo cũng cần gặp bác sĩ. Vùng nhiễm khuẩn có màu đỏ, sau đó xuất hiện các mụn nước nhỏ tụ thành đám. Chính những mụn nước này chứa đầy virus khi vỡ ra sẽ tạo nên tổn thương hở, đôi khi rất đau. Sau khoảng 10 ngày mới lành sẹo, tạo thành vẩy và bong. Mọi dấu hiệu này có thể kèm theo với sốt, đau lưng, nhức đầu và đau bụng.

Khi có đợt bùng phát mới, khi có các tổn thương đau, dễ kích thích hay khi chỉ khó chịu ở cơ quan sinh dục cần gặp ngay thầy thuốc?

Giảm nguy cơ lây nhiễm cho trẻ sau khi sinh

Vài tháng đầu sau khi sinh, trẻ rất dễ bị bệnh vì hệ miễn dịch còn non trẻ, chưa có khả năng chống lại một số bệnh. Ở giai đoạn này, lây nhiễm virus mụn giộp có thể xảy ra khi người lớn bị chốc mép hôn hít trẻ và hậu quả có thể nghiêm trọng với trẻ. Khi trong tiền sử ở bố mẹ có mắc bệnh mụn giộp, cần báo cho thầy thuốc để có các biện pháp phòng ngừa đặc biệt cho trẻ.

Vệ sinh cho trẻ cần được tăng cường: tiếp xúc với trẻ phải rửa tay sạch, khăn, tã của trẻ phải để riêng, tuyệt đối không hôn hít trẻ khi có chốc mép. Gặp thầy thuốc ngay khi trẻ có những mụn nước trong trên da, khi mắt trẻ đỏ và khóc nhiều, bỏ bú, ngủ cả khi tắm hay khi ăn, dễ kích thích… Có khi sốt kéo dài và co giật.

Trẻ sơ sinh nhiễm HSV

Nhiễm HSV ở trẻ sơ sinh hiếm nhưng nghiêm trọng, do lây truyền dọc HSV (virus gây mụn giộp) từ mẹ sang con. Tỷ lệ trẻ sơ sinh bị nhiễm HSV từ mẹ khoảng 3,61 cho 100.000 trường hợp sinh ra sống ở Úc (tương tự ở Anh, nhưng thấp hơn nhiều ở Mỹ). Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh nhiễm HSV cao (tới 25%) mặc dầu hiện nay đã có thuốc chống virus. Nguyên nhân tử vong ở trẻ sơ sinh là do HSV lan tràn khắp cơ thể và/hoặc do HSV gây viêm não.

BS. Đào Xuân Dũng

Chửa ngoài dạ con

Với thai nghén bình thường, sau khi noãn thụ tinh, trở thành "trứng" sẽ được chuyển dần vào trong dạ con theo ống dẫn trứng. Thông thường, sự thụ tinh diễn ra ở 1/3 phía ngoài của ống dẫn trứng và trứng thụ tinh sẽ vừa di chuyển vào dạ con vừa phát triển thành phôi và phải vài ba ngày sau phôi mới vào đến buồng dạ con để "làm tổ" và phát triển tại đó. Nếu vì một lý do nào đó, phôi không chuyển được vào trong dạ con (thường gặp nhất là bị mắc lại trên đường di chuyển của ống dẫn trứng, dừng lại làm tổ, phát triển và lớn lên ngay tại đó). Lòng ống dẫn trứng chỉ nhỏ như cái tăm, không phù hợp với sự phát triển lớn dần lên của phôi thai và hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra là khi phôi thai to đến một mức nào đó sẽ phá vỡ ống dẫn trứng giống như đường ống dẫn nước bị bục vỡ, gây chảy máu dữ dội trong ổ bụng, có thể làm người bệnh tử vong nhanh chóng. Để tránh tai biến nguy hiểm đó, cần phải phát hiện sớm tình trạng thai ngoài dạ con ngay từ khi nó chưa vỡ. Điều này không chỉ thầy thuốc cần biết mà bất cứ chị em nào cũng nên tìm hiểu để tránh được tai biến vỡ chửa ngoài dạ con (dù có được đưa đến bệnh viện cũng đã muộn, có khi không cứu vãn được).

 Các giai đoạn của chửa ngoài tử cung bị vỡ.
Những biểu hiện khi bị chửa ngoài dạ con?

- Trước hết, cũng giống như phụ nữ có thai khác, người phụ nữ chửa ngoài dạ con cũng có tình trạng mất kinh. Ở một phụ nữ đang có kinh nguyệt đều hàng tháng tự nhiên bị chậm đi vài ba ngày là phải nghĩ đến có thai và nếu chậm đã đến 5-7 ngày thì có thể 70-80% là có thai.

- Bên cạnh tình trạng mất kinh, cũng có thể xuất hiện các dấu hiệu nghén như mệt mỏi, ăn uống kém, thèm ăn những thứ linh tinh (nhất là của chua), lợm giọng, buồn nôn hoặc nôn. Tuy nhiên không phải ai cũng có đầy đủ các triệu chứng đó.

- Ngoài hai triệu chứng có thai kể trên, người bị chửa ngoài dạ con thường đau âm ỉ một bên bụng dưới (bên phải hoặc bên trái vùng dưới rốn). Tính chất đau không thường xuyên, thỉnh thoảng thấy nhói lên một chút, có khi cũng chẳng gây khó chịu gì nhiều và dễ bị bỏ qua.

- Cùng với đau ở bụng dưới, người bị chửa ngoài dạ con còn thấy ra một chút máu ở cửa mình. Số lượng máu ra không nhiều, nếu đóng khăn vệ sinh theo dõi thì dễ phát hiện được. Trên khăn vệ sinh sẽ thấy dính một thứ máu đen (không đỏ tươi như trường hợp dọa sảy), có thể lợn cợn một vài hạt nhỏ như bã cà phê đi kèm. Đặc điểm ra máu này là do phôi “làm tổ” tại ống dẫn trứng khiến ống này dãn ra, ít nhiều bị tổn thương ở bên trong gây rỉ máu. Vì ở vị trí xa với âm đạo nên khi thấm được ra băng vệ sinh, máu đã đen lại và kèm theo những cục máu đông nhỏ li ti tạo nên.

Với người phụ nữ chỉ cần thấy chậm kinh, có hoặc không kèm theo tình trạng nghén, nếu thấy đau bụng và ra máu như đã mô tả thì cần phải đi khám ngay tại cơ sở y tế gần nhất. Chính vì để tránh chửa ngoài tử cung cũng như những tai biến khác ở thời kỳ đầu thai nghén mà cán bộ y tế thường khuyên chị em phải đi khám thai sớm, ngay khi thấy chậm kinh trong vòng một - hai tuần lễ.

Tại cơ sở y tế, các thầy thuốc sẽ thăm khám cụ thể và thường cho làm hai xét nghiệm, đó là: thử thai bằng que thử nhúng vào nước tiểu và gửi đi xét nghiệm siêu âm. Với người chửa ngoài dạ con đã có dấu hiệu ra máu thì chắc chắn khi đó phôi thai đã làm tổ tại một vị trí nào đó và như vậy, nước tiểu của chị em này đã có chất hCG (chất có trong nước tiểu từ khi phôi bắt đầu làm tổ) làm cho que thử thai xuất hiện 2 vạch đỏ. Còn siêu âm lúc này thực ra không phải là để tìm khối thai nằm ở đâu mà để xác định trong dạ con không thấy hình ảnh thai và túi ối (còn túi ối đó lạc chỗ ở một nơi nào đó thì không dễ gì phát hiện được lúc quá sớm này). Tóm lại, nếu thầy thuốc thấy có những triệu chứng lúc khám lâm sàng, thấy phản ứng dương tính khi thử nước tiểu (có 2 vạch đỏ) và siêu âm không thấy túi ối ở trong dạ con thì có thể nghĩ nhiều đến chửa ngoài dạ con. Trong trường hợp này, nhất thiết người phụ nữ phải được vào bệnh viện làm một số xét nghiệm khác, theo dõi chặt chẽ và cuộc mổ có thể thực hiện sớm ngay khi chửa ngoài tử cung chưa bị vỡ (đây cũng là lúc có thể mổ bằng nội soi). Trong một số trường hợp, ở những cơ sở bệnh viện lớn còn có thể điều trị nội khoa bằng thuốc, không phải mổ.

BS. Phó Đức Nhuận

Sảy thai liên tiếp

Có nhiều bà mẹ khấp khởi vì mình mang thai nhưng rồi thai lại sảy liên tục. Trong 1000 phụ nữ mang hai có khoảng 5-10 người đau khổ như thế. Có nhiều nguyên nhân gây sảy thai (ST), nhưng dưới đây chỉ xin nói đến những người bị ST , nhưng dưới đây chỉ xin nói đến những người bị ST tự nhiên liên tục từ ba lần trở lên và được gọi là ST thường xuyên.

Thế nào được gọi là ST liên tiếp?

ST là hiện tượng thai ra ngoài bụng mẹ một cách tự nhiên, không giữ lại được. ST liên tiếp (RPL: repeated pregnancy loss) chiếm tỷ lệ 0,5-1% phụ nữ mang thai. RPL được định nghĩa là ST 3 lần liên tiếp trước tuần thứ 20, hay cân nặng của thai chưa tới 1/2kg. RPL được chia ra làm 2 nhóm:

Nguyên phát: chưa lần nào sinh em bé sống trước đó.

Thứ phát: đã từng sinh tối thiểu thành công một em bé.

 Ảnh: corbis

Các nguyên nhân dẫn đến RPL

Di truyền: những bất thường nhiễm sắc thể của thai là nguyên nhân thường gặp nhất. Thực tế, khi xét nghiệm mô thai, các trường hợp ST trong 12 tuần lễ đầu, 60% có bất thường nhiễm sắc thể là nguyên nhân dẫn đến ST dưới 3 tháng tuổi.

Bất thường về giải phẫu: (các bộ phận cơ thể), chia làm 2 nhóm:

Bẩm sinh: do những loại dị dạng tử cung như: tử cung 1 sừng, tử cung 2 sừng, tử cung có vách ngăn… Tỷ lệ thai sống 5-28%.

Mắc phải: do u xơ tử cung (41%), dính lòng tử cung vì nạo thai (5%), hở eo tử cung…

Nội tiết: do thể vàng (hoàng thể) yếu, không sản xuất đủ progesterone nuôi dưỡng thai. Do mẹ bị bệnh đái tháo đường, bệnh huyết áp... chiếm 25% trường hợp ST trong 3 tháng đầu.

Bất đồng nhóm máu mẹ và con: bất đồng nhóm máu Rh giữa mẹ và con sẽ dẫn đến tình trạng miễn dịch chống lại yếu tố Rh trong máu con và gây ST liên tiếp.

Nhiễm trùng, nhiễm khuẩn: phụ nữ nhiễm trùng urealyticu, mycoplasma hominil, ureaplasma có nguy cơ ST liên tục.

Nhiễm khuẩn tử cung khiến cho trứng không làm tổ được, hoặc nhiễm khuẩn toàn thân nặng ở người mẹ (virus cytomegalo, rubeole...) khi mang thai dẫn đến lây nhiễm cho thai. Nếu là do virus thì không có thuốc nào điều trị được.

Môi trường: rượu, thuốc lá… và một vài loại thuốc có liên quan đến RPL. Hóa trị liệu, tia xạ, khí gây mê, kim loại đã được chứng minh gây ST. Ngoài ra, nhiều loại thuốc dùng trong điều trị da liễu cũng là nguyên do.

Không rõ nguyên nhân: chiếm khoảng 50-60%.

Điều trị RPL

Phương pháp điều trị tùy thuộc vào nguyên nhân, có thể phẫu thuật, điều trị hormone... Tuy nhiên, việc xác định nguyên nhân ST tương đối khó khăn và không phải lúc nào cũng thành công. Do đó, bạn nên khám sức khỏe trước khi lập gia đình, đến bác sĩ để khám và theo dõi ngay từ khi chưa có thai. Cả hai vợ chồng sẽ được tư vấn về những điều cần làm và cần đề phòng. Nếu có dấu hiệu mang thai, bạn cũng cần được bác sĩ theo dõi, hỗ trợ sớm và chỉ định những thuốc cần thiết. Nên có con trước tuổi 35 để hạn chế những bất thường trong nhiễm sắc thể phôi thai.

 Hở eo tử cung gây ST

Với những người ST nhiều lần, bác sĩ khuyên tránh lao động nặng, cho uống thuốc giữ thai loại progesterone, thuốc giảm co và khâu vòng cổ tử cung để phòng ST. Bên cạnh đó, tốt nhất là nên hạn chế thuốc lá và rượu. Nếu côngviệc liên quan đến những chất độc hại, bạn phải đảm bảo điều kiện bảo hộ lao động tốt nhất. Tránh tiếp xúc trực tiếp với chất độc.

Sau mỗi lần ST, nên dành thời gian nghỉ ngơi (ít nhất là 6 tháng) để cơ quan sinh sản hồi phục rồi mới nên có thai lại. Thời gian nghỉ ngơi này chính là lúc kiểm tra tìm nguyên nhân ST. Hiện tại, vẫn còn khoảng 50% các trường hợp RPL không thể điều trị do không rõ nguyên nhân. Và phương pháp điều trị tốt nhất là hỗ trợ về mặt tâm lý.

Một số món ăn phòng chống RPL

Món cháo nếp, đẳng sâm, đỗ trọng

Nguyên liệu: đẳng sâm 5-10g, đỗ trọng 6-12g, gạo nếp 100g.

Cách chế biến: cho đẳng sâm và đỗ trọng vào túi vải buộc miệng, rồi cho vào nồi cùng gạo nếp nấu nhừ thành cháo là ăn được.

Cách dùng: mỗi ngày ăn 2-3 lần, ăn trong thời kỳ mang thai ở 3 tháng đầu.

Canh hạt sen, trần bì, tô cảnh

Nguyên liệu: hạt sen 60g, tô cảnh 10g, trần bì 6g.

Cách chế biến: hạt sen bóc vỏ bỏ tâm cho vào nồi, đổ nước đun chín đến 4-5 phần thì cho tô cảnh, trần bì vào, đun tiếp đến khi hạt sen chín kỹ là ăn được.

Cách dùng: ăn ngày 1-2 lần, trong suốt thời kỳ mang thai 3 tháng đầu.

Canh trứng gà ngải cứu

Nguyên liệu: lá ngải cứu 50g, trứng gà 2 quả, đường trắng một ít.

Cách chế biến: lá ngải cứu cho nước vừa đủ ăn nấu canh, sau đập 2 quả trứng gà bỏ vào đun chín, cho tiếp đường trắng vào khuấy tan.

Cách dùng: hằng ngày uống trước khi đi ngủ, trong suốt thời kỳ mang thai 3 tháng đầu.

Dùng nước áo ngô (vỏ bắp)

Nguyên liệu: áo ngô lượng vừa đủ. Cách chế biến và sử dụng: hằng ngày dùng áo ngô sắc lấy nước uống liên tục, cho tới gần ngày ST lần trước thì tăng lượng áo ngô lên gấp đôi và như vậy uống tới khi sinh mới thôi.

Canh gà mái, mực ống

Nguyên liệu: gà mái 1 con 500-700g, làm thịt rửa sạch, mực ống 1 con, gạo nếp 90-150g.

Cách chế biến: làm thịt gà rửa sạch, cùng mực ống cho vào hầm nhừ, lấy nước canh đặc cho gạo nếp từ 90-150g nấu nhừ thành cháo, nêm đủ gia vị mắm muối vừa miệng.

Cách dùng: sau khi mang thai ăn bất cứ lúc nào, ăn thường xuyên, lượng không hạn chế cho đến khi quá thời gian thường ST thì ngừng ăn. Có thể ăn thịt gà và khô mực cũng được.

BS. Lê Khánh Vân

(BS. Lê Khánh Vân)

Ai cần chẩn đoán trước và sau sinh?

Tôi có thai lần đầu được 2 tháng, có nghe mọi người nói hiện nay để phát hiện sớm dị tật của thai cần đi siêu âm màu để chẩn đoán trước sinh, người khác lại nói phải chẩn đoán sau sinh. Xin quý báo tư vấn để tôi được rõ về chẩn đoán trước sinh và sau sinh. Ai cần làm xét nghiệm này?

Phạm Thị Hoa(Lâm Đồng)

Hiện nay nhờ những tiến bộ y học như siêu âm, sinh hóa máu mà rất nhiều bệnh tật được chẩn đoán sớm trong đó có chẩn đoán sớm về các di tật của thai nhi. Chẩn đoán trước sinh là một chẩn đoán sớm từ thời kỳ bào thai nhờ siêu âm hay xét nghiệm nước ối. Thông qua siêu âm đa chiều người ta có thể phát hiện được những dị tật như thai vô sọ, thai bị bệnh down, các dị tật ống thần kinh, dị tật tim, từ đó tư vấn cách điều trị sớm hoặc cần thiết nên phá thai. Còn chẩn đoán sau sinh là sau khi đẻ ra trẻ được lấy máu ở gót chân để làm xét nghiệm. Xét nghiệm sàng lọc sơ sinh này sẽ giúp chẩn đoán sớm các trường hợp như hạ đường huyết, bệnh về chuyển hóa như khuyết men G6PD để được điều trị kịp thời, nếu không trẻ sẽ tử vong. Hiện nay phần lớn các cơ sở khám chữa bệnh đã được trang bị máy siêu âm. Tuy nhiên không nhất thiết lần nào khám thai cũng phải làm những xét nghiệm này mà chỉ cần siêu âm đa chiều (màu) vào tuần thứ 12 đến 14 để kiểm tra độ dày da gây để xác định thai nhi bị bệnh doxn. Nếu có nghi ngờ thì bác sỹ sẽ hẹn siêu âm lại sau đó. Như vậy phụ nữ mang thai rất cần được chẩn đoán trước sinh và sau sinh. Đặc biệt những phụ nữ có nguy cơ như bị cúm, rubela, sởi, đái tháo đường, thừa cân, phụ nữ mang thai trên 35 tuổi... Những phụ nữ có tiền sử đẻ con dị tật nên được khám và tư vấn di truyền trước khi mang thai. Muốn thế chị em khi mang thai cần đăng ký khám thai định kỳ tại cơ sở y tế.          

Bác sĩ. Kim Anh

Kiêng cữ sau khi sinh?

Mùa hè, sau khi sinh, nhiều sản phụ vẫn kiêng tắm gội trong suốt cả tháng đầu vì sợ nếu tắm gội sớm sau này sẽ bị đau đầu và ngứa người hoặc kém chịu rét. Trong thời kỳ hậu sản, người phụ nữ còn mặc quần áo dài, đi tất, không bật quạt, phải nằm trong phòng kín vì sợ sau này sẽ bị lạnh chân tay khi mùa đông về, nằm ngủ khép chặt hai chân vào nhau để tử cung nhanh co bóp... những quan niệm trên chưa thật đúng thậm chí còn không tốt cho sức khoẻ bà mẹ.

 Ảnh minh họa.

Có nên kiêng tắm?

Sinh nở là một công việc nặng nhọc khiến người phụ nữ phải gắng sức và mất rất nhiều năng lượng. Sau khi sinh, cơ thể người mẹ ra nhiều mồ hôi, nên cần phải tắm gội cho sạch sẽ. Vào mùa hè trời nóng, mồ hôi ra nhiều, để lâu không tắm, cơ thể càng bẩn, càng dễ nhiễm khuẩn. Thông thường 3 hoặc 4 ngày sau sinh là có thể tắm được, không nên để một tháng. Tuy nhiên, cách tắm như thế nào là một vấn đề phải hết sức chú ý. Tắm nhanh và tắm "dội" là hai yêu cầu cơ bản. Tắm nhanh là thời gian tắm không nên lâu quá, từ 5 đến 10 phút là vừa. Còn tắm "dội" nghĩa là dùng vòi hoa sen hoặc dùng gáo múc nước, dội từ trên xuống dưới, không nên tắm trong bồn tắm hay trong chậu. Ngoài ra cần phải tắm ở nơi kín đáo, tránh gió lùa, nên tắm nước ấm, kể cả mùa hè hay mùa đông, khi tắm xong phải lau khô nhanh. Gội đầu cũng thế, không nên kiêng gội đầu đến một tháng, song, phải gội nhanh và lau đầu cho nhanh khô.

... dùng nước muối để vệ sinh?

Sau khi sinh, tử cung co bóp để đẩy sản dịch ra ngoài. Sản dịch thực chất là màng rau, đồng thời cũng là những dịch và niêm mạc của cổ tử cung và âm đạo bong ra. Do vậy, vệ sinh sau sinh hết sức quan trọng. Nên vệ sinh ít nhất là 3 lần vào sáng, chiều và tối trước khi đi ngủ, nếu sản dịch ra nhiều nên vệ sinh nhiều lần hơn. Các phương tiện vệ sinh phải sạch, tốt nhất nên vệ sinh bằng nước sôi để nguội hoặc ấm. Không nhất thiết phải dùng dung dịch sát khuẩn nhưng nước vệ sinh phải là nước sạch. Không nên dùng nước muối loãng để vệ sinh vì tinh thể muối sẽ hút nước và làm vùng sinh dục ngoài của người phụ nữ luôn bị ẩm ướt, tạo điều kiện tốt cho vi khuẩn phát triển.

... và nằm gác chéo chân?

Có hai trục trặc phổ biến thời kỳ hậu sản là bế sản dịch và đờ tử cung. Bế sản dịch là sản dịch không thoát ra ngoài được, hiện tượng này thường gặp ở người sinh con so. Triệu chứng là không có máu ở khăn vệ sinh, đau bụng, sờ vào bụng thấy cứng, có cục. Ngược lại với bế sản dịch, là hiện tượng sản dịch chảy nhiều. Sản dịch chảy nhiều có thể do đờ tử cung - đờ tử cung là tử cung không co bóp được, dẫn đến triệu chứng máu chảy nhiều. Nguyên nhân thứ hai dẫn đến việc sản dịch chảy nhiều có thể do rách tử cung hoặc rách âm đạo mà không được phát hiện hoặc khâu không tốt. Trong trường hợp này, sau sinh 3 đến 4 ngày mà máu vẫn chảy nhiều, sờ vào bụng dưới thấy mềm, ấn vào một cái thấy máu chảy ra thì khả năng đờ tử cung là rất lớn nhất là khi thấy sản phụ thiếp đi, hạ đường huyết thì phải đưa ngay sản phụ đến cơ sở y tế hoặc gọi bác sĩ. Một sai lầm phổ biến nhiều người mắc phải thời kỳ này, đó là nằm gác chéo hai chân lên nhau. Nhiều người cho rằng nằm như thế âm đạo sẽ khép lại, nhưng thực chất nằm gác chéo chân là không tốt vì sẽ ngăn cản sản dịch thoát ra ngoài.    

Bác sĩ  Hạnh Chung

Vô sinh không chỉ riêng ở nữ giới

Khi bị vô sinh (VS), nhiều người thường đổ lỗi cho người mẹ, thực tế có đúng vậy không? Theo nhà triết học vĩ đại aristote đã nói: “Những người đàn ông bệnh tật, nghiện rượu và chơi bời không thể có con”. Với câu nói trên và những tiến bộ của y học ngày nay thì nguyên nhân dẫn đến VS thì không chỉ riêng ai.

Thế nào là VS

Theo quan niệm của các nhà y học cho rằng, VS là tình trạng vợ chồng chung sống với nhau không có thai trong thời gian 2 năm mà không áp dụng bất cứ biện pháp tránh thai nào. Nhưng ngày nay, theo Tổ chức Y tế thế giới, thời gian này rút ngắn chỉ còn 1 năm. VS được chia làm 2 loại là VS nguyên phát, viết tắt là VS1, nghĩa là chưa có thai lần nào và VS thứ phát (VS2), tức là đã từng có thai ít nhất 1 lần. Ngày nay, nhờ những tiến bộ của khoa học, nguyên nhân gây VS đã lần lượt được làm sáng tỏ, trong đó các nhà khoa học thấy rằng tỷ lệ VS giữa nam và nữ ngang nhau, tỷ lệ đó chiếm khoảng 40%, còn lại 20% là nguyên nhân kết hợp VS do cả vợ lẫn chồng. Có một nghiên cứu khác, các nhà khoa học thấy rằng tỉ lệ gây VS ở nam giới lên đến 45%.

 Ảnh minh họa (Ảnh: corbis)

VS do nữ

Ở nữ giới, muốn có thai, thì tinh trùng phải qua được âm đạo, đi đến gặp được trứng và thụ thụ thai ở 1/3 ngoài vòi trứng, trở thành trứng thụ tinh di chuyển vào buồng tử cung, sau đó trứng sẽ phát triển lên hình thành bào thai. Một trong các quá trình đó hoặc một vài quá trình, gặp trắc trở, thất bại, sẽ gây VS.

Về nguyên nhân gây VS ở nữ giới, thì có rất nhiều, nếu hiểu rõ, có thể đề phòng được. Nguyên nhân thường gặp VS ở nữ giới là có bất thường về giải phẫu cơ quan sinh dục như: hẹp âm hộ-âm đạo hay chỉ có một phần âm đạo, âm đạo có vách ngăn, màng trinh dày, kênh cổ tử cung hẹp, rối loạn chất nhầy cổ tử cung ngăn cản sự di chuyển của tinh trùng, tử cung kém phát triển, dị dạng tử cung đôi, dầy dính buồng tử cung do nạo hút thai, viêm nhiễm dày dính làm tắc tai vòi, lạc nội mạc tử cung. Nguyên nhân do không có buồng trứng, buồng trứng kém phát triển, suy giảm hoàng thể, không phóng noãn do dùng thuốc tránh thai kéo dài, hội chứng Turner…

Ngoài ra, còn một số nguyên nhân xảy ra trong sinh hoạt hằng ngày như: do sang chấn tinh thần, lãnh cảm, sợ hãi quá mức nên từ chối sinh hoạt tình dục, suy dinh dưỡng làm rối loạn sản xuất hormone, hút thuốc, uống nhiều rượu, lập gia đình trễ, thường xuyên sử dụng thực phẩm không có lợi cho sức khỏe, thừa cân hoặc béo phì, hay quá gầy, tập luyện căng thẳng, mắc bệnh lây qua đường tình dục như bệnh chlamydia…

VS do nam

Nguyên nhân từ phía nam giới, thường nhất là do khiếm khuyết từ tinh trùng như: không có tinh trùng, tinh trùng quá ít, tinh trùng di động yếu và tinh trùng dị dạng; xuất tinh ngược dòng, tinh trùng chảy ngược vào bàng quang, sau đó được đi tiểu ra ngoài. Nguyên nhân gây bệnh lý ở tinh hoàn, tinh hoàn teo nhỏ thể tích nhỏ hơn 3ml, tinh hoàn lạc chỗ, teo tinh hoàn do bệnh quai bị, do chấn thương, bệnh lây truyền qua đuờng tình dục có thể làm viêm tắc ống dẫn tinh, thường xuyên nghiện rượu, thuốc lá…

Ngoài nguyên nhân VS do vợ hoặc chồng, còn có một số trường hợp, cả hai vợ chồng đều bình thường về phương diện sinh sản, nhưng tinh trùng người chồng không thích hợp với chất nhầy ở cổ tử cung người vợ, làm cho tinh trùng bị chết và không đi vào đường sinh dục nữ được. Trường hợp này thường được chẩn đoán bằng xét nghiệm sau giao hợp, lấy chất nhầy ở cổ tử cung người vợ vài giờ sau giao hợp, để xem sự di động và khả năng sống của tinh trùng. Hoặc có trường hợp hệ miễn dịch người phụ nữ tạo ra các kháng thể để diệt tinh trùng theo cơ chế đào thải vật lạ.

Vô sinh nam do giảm số lượng tinh trùng.

Phòng ngừa VS

Về phòng VS, vợ chồng cũng có thể thực hiện được một số nguyên nhân.

Đối với nữ giới như giữ vệ sinh bộ phận sinh dục hàng ngày trong thời gian có kinh nguyệt, trước và sau khi giao hợp để tránh bị viêm nhiễm bộ phận sinh dục, bởi đây chính là nguyên nhân chính làm tắc vòi tử cung. Tránh để bị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nếu có bị mắc các bệnh viêm nhiễm cần điều trị thật sớm, tích cực và triệt để. Nếu có các biểu hiện của việc rối loạn kinh nguyệt, nhất là tình trạng rong kinh kéo dài thì điều trị thật sớm và triệt để, bởi các rối loạn này có thể dẫn đến rối loạn trong quá trình phóng noãn. Tránh hút thuốc, uống rượu bia.

Đối với nam, tránh nghiện rượu bia, thuốc lá, đặc biệt là thuốc lá vì có ảnh hưởng xấu đến khả năng mang thai và trong suốt thai kỳ. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và thấy rằng, hút thuốc lá có hại cho sự hình thành giao tử, có thể bị tổn thương bởi khói thuốc lá, các nhiễm sắc thể mà cả gen di truyền ADN gây ra tổn thương cho tế bào mầm có thể là hậu quả của tiếp xúc với khói thuốc lá. Nam giới hút nhiều thuốc lá sẽ làm giảm số lượng tinh trùng và gia tăng tỉ lệ tinh trùng chết và bất thường hình dạng, chức năng. Mặc dù, tác động của thuốc lá lên khả năng sinh sản của nam giới và tác hại của hút thuốc lá thụ động lên khả năng sinh sản của nữ giới vẫn còn bàn cãi, thì việc hút thuốc lá nên được quan tâm như yếu tố nguy cơ gây VS.

BS. CKI. Trần Quốc Long

(BS. CKI. Trần Quốc Long)

Viêm thận

Triệu chứng bệnh viêm thận - tiết niệu rất thất thường, có khi rất kín đáo nên sản phụ không biết. Bệnh được phát hiện qua một xét nghiệm thông thường. Có khi chỉ là một suy giảm chức năng đã phải chú ý tới tổn thương nhu mô thận. Những biến đổi chức năng của đường tiết niệu dưới rất quan trọng vì viêm nhiễm thường xuất phát từ đây. Mỗi khi sản phụ bị sốt chưa rõ nguyên nhân, ta phải chú ý ngay tới viêm thận - tiết niệu.

Nếu sốt kèm theo rét run, đau lưng và đái buốt thì sản phụ cần đi khám để được điều trị kịp thời. Bệnh viêm bể thận - thận. sẽ khỏi nếu được điều trị sớm kể cả khi viêm nhiễm chưa thật rõ ràng hoặc còn kín đáo. Nếu không điều trị thì tình trạng thai nghén sẽ làm tăng thêm các nguy cơ. Nếu bệnh tái diễn và vi khuẩn cũ tồn tại thì phải nghĩ tới một chướng ngại vật trên đường tiết niệu. Phải siêu âm hoặc chụp X-quang để xác định là u, sỏi hoặc chít hẹp. Những xét nghiệm này còn phải làm lại sau sinh từ 6 - 8 tuần, khi các đường bài xuất đã trở lại trạng thái bình thường.

Ảnh: Gettyimages.com 

Ở phụ nữ mang thai, bệnh viêm thận - tiết niệu sẽ nặng hơn vì các biến đổi sinh lý ở thận và đường tiết niệu của sản phụ đã làm tiên lượng của bệnh xấu đi. Các đường bài xuất nước tiểu bị giãn to do tác dụng của progesteron (nội tiết tố nữ) hoặc do sự chèn ép cơ học của tử cung ngày càng to. Các nhu động của bể thận, niệu quản bị suy giảm nên lưu thông nước tiểu kém. Trong nước tiểu sản phụ, lượng đường thường tăng cao kể cả khi không có bệnh đái tháo đường. Kali huyết của sản phụ hạ thấp do nôn mửa hoặc uống thuốc lợi tiểu. Chính những thay đổi nội tiết trong những ngày đầu mang thai đã làm viêm nhiễm phát sinh và phát triển, ngay cả khi chưa có những biến đổi về giải phẫu của đường bài xuất nước tiểu. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm tăng thêm nguy cơ cho thai nghén. Nếu trước đây sản phụ đã từng bị viêm cầu thận, sỏi tiết niệu hoặc một dị tật bẩm sinh ở đường bài xuất hoặc bị bệnh đái tháo đường thì chắc chắn nguy cơ sẽ lớn hơn nhiều.

Viêm thận - tiết niệu phải được điều trị bằng thuốc kháng sinh. Nhưng dùng kháng sinh gì, trong bao lâu... nhất thiết phải do các thầy thuốc chuyên khoa chỉ định. Lưu ý, không được thông bàng quang cho sản phụ vì dễ gây ra viêm bể thận - thận ngược dòng kéo dài, rất khó điều trị.

Bác sĩ Tống Hồng Nhung

Mang thai, vận động thế nào là hợp lý?

Tôi có thai được 4 tháng, đã đỡ nghén nhưng vẫn rất mệt mỏi. Mọi người trong gia đình luôn bắt tôi phải cố gắng đi bộ mỗi tối để sau dễ sinh con. Xin hỏi bác sĩ có đúng vậy không, nếu có thì nên tập luyện như thế nào?   

Vương Thanh Hà(Hưng Yên)

 Thai phụ cần luyện tập phù hợp với sức khỏe.

 

Khi có thai, cơ thể người phụ nữ có nhiều thay đổi do vậy họ phải có một chế độ dinh dưỡng, tập luyện phù hợp. Thực tế tại các bệnh viện phụ sản cho thấy phụ nữ mang thai đến lúc chuyển dạ thường ít cơn co, do vậy phải sử dụng thuốc kích thích hoặc chỉ định can thiệp cho cuộc đẻ. Nguyên nhân chủ yếu là lười vận động. Tuy nhiên mang thai phải vận động như thế nào là hợp lý. Đối với những phụ nữ trẻ, khỏe mạnh bình thường, không có các tiền sử sản khoa xấu (sảy thai, đẻ non, thai chết lưu...) thì mọi sinh hoạt hằng ngày vẫn diễn ra bình thường, chỉ tránh khuân vác những vật dụng nặng, những việc làm gắng sức. 3 tháng đầu của thai kỳ nên vận động nhẹ nhàng hơn vì nguy cơ sảy thai cao, nên vận động nhiều hơn (đi bộ hằng ngày là hình thức phù hợp nhất) vào 3 tháng cuối. Những trường hợp có tiền sử sảy thai, hay có dọa sảy thai thì không nên vận động nhiều. Nếu chị mới có thai 4 tháng và chưa qua hẳn mệt mỏi của giai đoạn nghén thì cần được chăm sóc bồi dưỡng tốt hơn sau đó nên vận động phù hợp với sức khỏe và không nên tập luyện quá sức.

ThS. Nguyễn  Cảnh Chương

Những điều nên tránh sau khi “vượt cạn”

Sinh nở là thiên chức, đồng thời là hạnh phúc của người phụ nữ. Tuy vậy, trong giai đoạn sáu tháng đầu sau khi sinh con, họ nhất thiết phải tránh những điều sau thì mới có thể duy trì sức khỏe và vẻ đẹp của bản thân mình.

Không giữ ấm cơ thể

Mặc kín toàn thân là một việc không dễ dàng đối với sản phụ bị nực sữa, ngay cả những người sinh con vào mùa đông. Hầu hết phụ nữ trong giai đoạn ở cữ đều cảm thấy hết sức nóng nực, nhưng nếu toàn thân không được giữ ấm và kín, sau này rất có thể họ sẽ rơi vào tình trạng “thiên hạ chưa rét thì mình đã rét”.

Thậm chí, có một số người còn phải mặc áo rét giữa tiết trời mùa hè nóng bức. Nhất là vùng bụng của sản phụ, nếu hay bị hở trong thời kì ở cữ, về sau sẽ rất hay bị đau bụng, lạnh bụng.

Ngồi nhiều, luôn cho con bú trong tư thế ngồi

Cơ thể người phụ nữ vừa mới sinh còn yếu, xương cốt vừa phải trải qua một trận “tập dượt” khá nặng nên chưa thể trở lại ngay trạng thái bình thường. Nếu ngồi nhiều sẽ dễ mắc chứng đau lưng kinh niên.

 Sau sinh không nên ngồi nhiều. Ảnh: corbis

Hơn nữa, tử cung bị co thắt mạnh chưa hồi phục, việc ngồi quá nhiều, nhất là ngồi xổm khiến cho tử cung có thể bị sa. Điều này gây nguy cơ đối với sức khỏe cũng như những lần sinh sau của sản phụ. Tốt nhất là nên đi lại nhẹ nhàng 1, 2 lần trong ngày để cơ thể được vận động, từ đó điều hòa khí huyết.

Nói quá nhiều, quá nhanh

Đây là đặc tính của nhiều chị em, rất khó bỏ ngay cả khi vừa sinh con. Tuy nhiên phải quyết tâm, nếu không sẽ có thể mắc phải tật nói líu lưỡi, nói nhịu.

Tẩm bổ quá nhiều

Nhiều phụ nữ thường xuyên lo lắng rằng mình không có đủ sữa cho em bé bú. Vì vậy, họ ra sức ăn thật nhiều mà chủ yếu là ăn những đồ ăn giàu đạm như: móng giò, thịt lợn, thịt gà… Kết quả là thân hình ai nấy đều “nở ra” một cách không thể phanh lại được. Chính điều này sẽ lại biến thành nỗi lo lớn của họ khi sắp sửa đi làm trở lại.

Ăn ít rau củ và hoa quả

Đối với cơ thể sản phụ cũng như em bé, nguồn vitamin và khoáng chất có dồi dào trong hoa quả và rau củ là vô cùng cần thiết. Nó giúp cho hai mẹ con có được sức đề kháng tốt hơn, da dẻ hồng hào và mịn màng hơn. Do đó, thực đơn dành cho sản phụ nhất thiết phải được cân đối giữa phần thức ăn giàu đạm với rau, củ, quả giàu vitamin.

Kiêng tắm gội quá lâu

Mặc dù rất khó chịu do cả ngày sữa chảy đầm đìa, mồ hôi nhễ nhại nhưng chị em vẫn cố nhịn tắm gội vì kiêng. Thực ra chỉ cần kiêng tắm gội trong khoảng một tuần, nhưng trong thời gian này sản phụ nên lau người nhẹ nhàng và thay quần áo thường xuyên.

Kiêng tắm rửa quá lâu sẽ càng làm cho sản phụ thêm mệt mỏi, thậm chí ăn không ngon, ngủ không yên, khó có thể có đủ sức lực để chăm sóc em bé. Như vậy mới là yếu tố dễ gây ảnh hưởng đến sức khỏe sau này.

Quá lo lắng về vóc dáng mình

Ai sinh con cũng đều có sự thay đổi về vẻ ngoài, không nhiều thì ít. Nhưng đó chỉ là giai đoạn ban đầu, nếu chịu khó tập luyện, bạn hoàn toàn có thể lấy lại một cơ thể săn chắc. Hơn nữa, thực tế cho thấy, đa phần phụ nữ sau khi sinh con đều đẹp lên, đó là sự mặn mà của “bông hoa vừa khai hoa nở nhụy”. Cho nên bạn đừng quá lo lắng sẽ dễ bị stress, chính điều này có thể làm cho bạn xấu đi đấy.

Ngại “gần gũi” chồng

Phải thừa nhận rằng sản phụ nào cũng rất bận rộn, mệt nhọc vì phải lo cho em bé. Nhưng đừng quên còn một “em bé trong hình hài người đàn ông” của chúng ta cần được quan tâm, chăm sóc và chia sẻ. Họ là những người phải giữ trọng trách trụ cột gia đình, trong khi việc có thêm em bé sẽ khiến cho gánh nặng về kinh tế càng tăng. Nhiều phụ nữ từ khi có con do quá mãi chăm sóc con mà xao nhãng “chuyện ấy” với chồng là điều không nên, vì hậu quả của nó đôi khi rất khó lường.

Quên bổ sung các vi chất cần thiết

Đó là các chất sắt, canxi, vitamin A, D… chỉ trông đợi từ nguồn thức ăn hàng ngày là không đủ, mà sản phụ cần bổ sung những vi chất này thường xuyên, bằng cách dùng thuốc từ giai đoạn mang thai cho đến nhiều tháng sau khi sinh.

Những sản phụ nuôi con bằng sữa mẹ lại càng cần phải chú ý điều này, vì ngoài nhu cầu cho cơ thể mẹ còn phải “chia” cho cả em bé. Nếu không, lượng sữa tiết ra hằng ngày sẽ “rút” dần những chất này của người mẹ đến mức cạn kiệt. Cơ thể thiếu nhiều loại vi chất rất khó có thể hồi phục lại sức khỏe ban đầu, nguy hiểm hơn có thể để lại những biến chứng về sau.

Suốt ngày ở trong phòng kín

Cho dù là mới sinh, người phụ nữ cũng rất cần được thường xuyên tiếp xúc với bầu không khí trong lành, thoáng đãng. Vì thế, không nên nhốt mình cả ngày ở trong buồng mà thỉnh thoảng phải đi ra những chỗ không khí được lưu thông. Chỉ cần chú ý tránh những nơi hút gió hay có gió lùa.

Cần phơi nắng sớm hàng ngày (trước 9 giờ sáng), cho cả mẹ và con là tốt nhất
 

Đây là mẫu, bạn có thể sửa lại ảnh, màu nền, kích cỡ của bảng tùy theo nhu cầu.

Bên cạnh đó, cần phơi nắng sớm hàng ngày (trước 9 giờ sáng), cho cả mẹ và con là tốt nhất, kết hợp với tập thể dục nhẹ nhàng.

BS. Lê Khánh Vân

(BS. Lê Khánh Vân)

Phòng tránh tắc tia sữa

Cháu tôi mới sinh con được 15 ngày, cháu đã có sữa nhưng ít và kêu đau, tức ngực, có phải cháu bị viêm tắc tia sữa không? Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân, cách phòng tránh?

Vũ Thị Huyền(Lạng Sơn)

Viêm tắc tia sữa là quá trình bế tắc, ứ đọng sữa khi phụ nữ cho con bú. Hay gặp ở phụ nữ sinh con đầu lòng. Triệu chứng điển hình là bầu vú sưng, nóng, đau, sốt. Nguyên nhân là do khi mang bầu không vệ sinh đầu vú, không day đều bầu sữa để thông tia sữa ngay sau khi sinh con. Trẻ bú quá ít khiến sữa bị ứ đọng gây ôi, tắc. Để không bị tắc tia sữa, người mẹ phải giữ thật sạch đầu vú, nhất là ở các kẽ của núm vú. Trước khi cho trẻ bú phải lau sạch và vắt một vài giọt sữa đầu bỏ đi, khi bú xong lại phải lau sạch, khô. Khi thấy sữa chảy không thành tia hoặc có tia bị tắc thì phải dùng tay xoa vú cho mềm, dùng ống hút sữa hoặc dùng tay vắt mạnh để thông sữa. Có thể dùng khăn ấm hoặc túi chườm nóng kết hợp với day ép để tăng nhanh hiệu quả điều trị. Khi thực hiện như trên mà không thấy có kết quả, nhất là khi thấy vú sưng đỏ, sốt cao thì phải tới bác sĩ chuyên khoa khám để tránh bị áp-xe vú.

BS. Phương Thu

Có phải do nhiễm khuẩn âm đạo?

Khi âm đạo có nhiều dịch, dịch giống như mủ, có mùi hôi và âm đạo đau khi thăm khám, thường đã bị bệnh lây truyền qua đường tình dục...

Vi khuẩn Chlamydia trên kính hiển vi. 

Xuất tiết ở âm đạo được coi là bình thường khi dịch đó có màu trắng hay như sữa, không mùi, không màu, không gây ngứa, rát và không làm khô cứng quần lót. Chính dịch âm đạo bình thường là phương tiện để cơ thể tự làm sạch âm đạo; lớp tế bào chết trên thành âm đạo cũng giúp cho tiến trình tự làm sạch. Lượng dịch âm đạo và màu sắc dịch thay đổi theo từng thời kỳ trong chu kỳ kinh và trong từng giai đoạn của thai nghén.

Hầu hết phụ nữ đều có 1 lần trong đời bị viêm nhiễm âm đạo và 9/10 số đó là do nấm hay vi khuẩn, 1/10 là do trùng roi.

Có 6 thể viêm âm đạo thường gặp nhất là:

Viêm âm đạo do nấm: Thường gặp do một trong số các chủng nấm có tên là Candida gây ra. Nhiễm nấm làm cho dịch âm đạo đặc lại, dai dính, cũng có thể hơi lỏng nhưng không có mùi, âm hộ và niêm mạc âm đạo thường đỏ, rất ngứa.

Viêm âm đạo do loạn khuẩn: Do sự phát triển của nhiều loại vi khuẩn chứ không phải là nấm khi môi trường âm đạo bị mất cân bằng, nhưng nguyên nhân đích thực của sự phát triển quá mức các loại vi khuẩn vẫn chưa rõ. Viêm âm đạo này là thể hay gặp nhất ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Thường ra khí hư có màu trắng như sữa và mỏng, có mùi hôi như mùi cá ươn, càng rõ hơn sau quan hệ tình dục. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là nhiều phụ nữ bị bệnh nhưng lại không có triệu chứng gì, chỉ được chẩn đoán khi đi khám phụ khoa theo thông lệ. Điều trị phức tạp hơn vì có nhiều loại vi khuẩn phối hợp.

Viêm âm đạo do trùng roi, do Chlamydia và do virut: Nếu do trùng roi: khí hư màu vàng, thường có mùi hôi, ngứa và đau ở âm đạo và âm hộ, đái buốt, có thể có cảm giác khó chịu ở bụng dưới và đau ở âm đạo khi giao hợp - những triệu chứng này có thể tăng lên sau giai đoạn hành kinh. Tuy nhiên cũng có nhiều phụ nữ không thấy có triệu chứng gì. Bệnh có thể lây nhiễm qua quan hệ tình dục. Để điều trị có hiệu quả, cần đồng thời chữa cho cả bạn tình.

Thể viêm âm đạo do Chlamydia: Nhiều phụ nữ mắc nhưng hầu hết không biểu hiện triệu chứng gì, vì thế chẩn đoán khó khăn. Thể viêm âm đạo này đôi khi không gây ra khí hư, nhiều phụ nữ chỉ thấy ra máu chút ít, nhất là sau khi quan hệ tình dục, đau bụng dưới và vùng tiểu khung.

Viêm âm đạo do virut: Virus herpes I và II gây mụn rộp sinh dục với những tổn thương nhìn thấy ở âm hộ, âm đạo. Khi nhiễm loại virut này thường kèm theo stress hoặc những biến động về cảm xúc. Một loại virut khác là HPV - virut gây u nhú ở người, cũng lây truyền do quan hệ tình dục, làm mọc ở âm hộ, âm đạo, vùng cổ tử cung (có khi cả trực tràng và bẹn) một hoặc nhiều u nhú không cuống, không đau.

Viêm âm đạo không do nhiễm khuẩn: Nguyên nhân thường gặp là do dị ứng với thuốc, do bơm rửa hoặc do thuốc diệt tinh trùng. Vùng da quanh âm đạo nhạy cảm với xà phòng, chất tẩy trắng và chất làm mềm vải. Phụ nữ tuổi mãn kinh hoặc bị cắt 2 buồng trứng có sự suy giảm hormon, bị khô hoặc "teo" âm đạo cũng có những triệu chứng của thể viêm âm đạo không do nhiễm khuẩn: đau, nhất là khi quan hệ tình dục, ngứa và nóng rát.

Mặc dầu mỗi nguyên nhân gây ra viêm này có thể có những triệu chứng khác nhau nhưng người phụ nữ không dễ dàng nhận ra mình mắc thể bệnh nào, trong thực tê, nhiều khi những thầy thuốc có kinh nghiệm cũng có thể gặp khó khăn chẩn đoán do hơn một thể bệnh cùng kết hợp. Nhiều khi viêm âm đạo lại không biểu hiện triệu chứng gì.

Vì tính chất phức tạp của chẩn đoán các nhiễm khuẩn âm đạo, cho nên thầy thuốc không thể chỉ dựa trên sự mô tả của người bệnh mà cần trực tiếp quan sát dịch, niêm mạc âm đạo và khám vùng tiểu khung, làm một số xét nghiệm.         

BS. Xuân Anh

Nhiễm độc thai nghén

Nhiễm độc thai nghén là tình trạng bệnh lý diễn ra trong thời gian mang thai, thường xảy ra vào tuần mang thai thứ 21 và hay xuất hiện ở người chửa con so, đa thai hoặc đa ối. Biểu hiện thường thấy là: phù, tăng huyết áp, đái albumin (xét nghiệm nước tiểu có albumin).

Tình trạng nhiễm độc thai nghén thường từ nhẹ đến nặng. Đầu tiên xuất hiện phù nề chi dưới, cân nặng cơ thể, tăng cân quá nhiều (1 tuần có thể tăng 0,5-1kg). Tiếp đó xuất hiện tăng huyết áp và albumin niệu. Nhiễm độc thai nghén mức độ nhẹ, được điều trị kịp thời thì không gây nguy hiểm đối với bà mẹ và thai nhi. Nếu không được khám và điều trị kịp thời thì triệu chứng sẽ nặng dần, người bệnh xuất hiện nhức đầu hoa mắt, tức ngực, nôn, ù tai... thậm chí co giật, choáng ngất, ngã vật, thân thể cứng đờ, sùi bọt mép (tình trạng này được gọi là sản giật). Cơn sản giật có thể liên tục dẫn đến mê man bất tỉnh, thậm chí tử vong. Nhiễm độc thai nghén có thể gây co thắt mạch máu toàn thân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc cung cấp ôxy và dinh dưỡng dẫn đến tình trạng thai nhi chậm phát triển trong tử cung, thai nhi yếu nếu nhẹ hoặc thai nhi chết trong tử cung nếu sản giật không được xử trí kịp thời.

 

Vì vậy phải điều trị kịp thời khi có nhiễm độc thai nghén:

- Kể từ khi bắt đầu mang thai, bà mẹ phải khám và kiểm tra thường xuyên, sớm phát hiện bất thường để chữa trị kịp thời.

- Trong thời gian mang thai, cần chú ý nghỉ ngơi nhiều hơn, không lao động chân tay quá sức, chế độ ăn tăng cường chất dinh dưỡng, thường xuyên bổ sung protein và vitamin, ăn giảm lượng muối.

- Khi phát hiện có phù, tăng cân nhanh hoặc các dấu hiệu bất thường thì phải đến khám ngay tại các cơ sở y tế (cân nặng, đo huyết áp, nghe tim thai, siêu âm thai...).

Khi đã xác định nhiễm độc thai nghén thì phải điều trị theo chỉ định của thầy thuốc. Tăng thời gian nghỉ ngơi, giảm ăn muối. Nếu bệnh nặng thì phải được điều trị tại bệnh viện.

Điều quan trọng để phòng tránh nhiễm độc thai nghén là vợ chồng phải cùng nhau học hỏi những kiến thức cơ bản về mang thai, sinh đẻ và nuôi con cũng như biết cách giữ gìn sức khỏe để hôn nhân hạnh phúc.

Bác sĩ Nguyễn Thị Phương

(Bác sĩ Nguyễn Thị Phương)

Ảnh hưởng của tuổi tác đến khả năng sinh sản ở phụ nữ

Ngày nay, cùng với nhịp sống hiện đại, ngày càng nhiều phụ nữ lập gia đình muộn nên tuổi mang thai của người phụ nữ cũng trở nên muộn hơn. Tuy nhiên, phụ nữ mang thai khi tuổi lớn hơn hay bằng 35 tuổi thì được xếp vào một nhóm tuổi mà theo thuật ngữ y khoa gọi là “tuổi mang thai già” (AMA). Việc này sẽ mang đến nhiều nguy cơ tiềm ẩn có thể xảy ra với cả mẹ lẫn con. Vì vậy, người phụ nữ lớn tuổi cần chú ý nhiều hơn đến sức khỏe khi mang thai.

 Trẻ bị hội chứng Down thường gặp ở các người mẹ lớn tuổi.
Ảnh hưởng của tuổi tác đến khả năng sinh sản

Sau tuổi 30, khả năng sinh nở của người phụ nữ bắt đầu giảm dần và đó là lý do vì sao các cặp vợ chồng khó có con hơn và cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề sinh sản hơn. Qua tuổi 40, khả năng sinh sản của nữ giới bắt đầu giảm, trứng rụng thưa dần, mỗi năm có thể có vài chu kỳ kinh nguyệt không có trứng rụng. Đến một lúc nào đó, thường vào khoảng từ 45 - 55 tuổi, khi không còn hành kinh nữa, thời điểm này gọi là mãn kinh, kết thúc tuổi sinh sản của người phụ nữ. Theo các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ thì cơ hội mang thai của người phụ nữ trong mỗi kỳ kinh nguyệt là:

- 50% ở những người tuổi 19-26, nếu họ quan hệ vào thời điểm dễ thụ thai nhất (2 ngày trước khi rụng trứng) với bạn tình cùng tuổi.

- 40% đối với phụ nữ 27-34 tuổi.

- Dưới 30% ở những người 35-39 tuổi. Tỷ lệ này có thể giảm tới 20% nếu chồng già hơn vợ 5 tuổi, vì lúc này khả năng sinh sản của người đàn ông cũng giảm.

Lứa tuổi nào là thích hợp với việc mang thai và sinh nở

Phần lớn nữ vị thành niên (từ 17-19 tuổi) đã hoàn toàn đủ điều kiện về mặt thể chất để có thai (có tiềm năng sinh sản cao, cơ thể lại khỏe mạnh) nhưng họ lại chưa đủ trưởng thành về mặt tâm lý để làm mẹ. Vì vậy, lứa tuổi sinh con đầu lòng tốt nhất là trong khoảng 20- 30 tuổi.

Những nguy cơ tiềm ẩn của bà bầu lớn tuổi

Dị tật thai nhi: một trong những biến chứng thường gặp nhất ở các bà bầu lớn tuổi đó là thai nhi mắc hội chứng Down. Lý do là tuổi tác làm cho các thể nhiễm sắc ở trứng không tách biệt tốt, chúng dễ kết dính với nhau và khi tạo thành một tổ hợp nhiễm sắc thể nào đó thì có thể dẫn đến hội chứng Down và nhiều bệnh khác do có nhiễm sắc thể thừa. Ngoài ra, là các nguy cơ khác như các dị tật, bệnh bẩm sinh do sự biến đổi gen. Tuy nhiên, với sự tiến bộ của y học ngày nay thì mọi bệnh tật, dị tật bẩm sinh đều có thể chẩn đoán từ rất sớm.

Nguy cơ sảy thai cũng tăng lên: những con số thống kê về sảy thai tăng theo tuổi tác cũng cho thấy gần 15% phụ nữ bị sảy thai dưới 35 tuổi, tỷ lệ sảy tăng lên 20% ở độ tuổi 35-37; 25% ở độ tuổi 38-40 và 40% sau 40 tuổi. Vì tỷ lệ sảy cao ở những phụ nữ có tuổi, cho nên số bị sảy từ 2 lần trở lên không phải là hiếm.

Tác động đến quá trình lâm bồn: sự can thiệp của y học sẽ tăng lên cùng với tuổi tác của người mẹ. Phần lớn trong số họ đều rơi vào tình trạng khó sinh và phải nhờ đến các biện pháp hộ sinh do tầng sinh môn còn chắc, sức rặn yếu hơn các sản phụ trẻ nên việc rặn không có hiệu quả cao và phải nhờ đến sự can thiệp từ bên ngoài của bác sĩ như: thúc chuyển dạ, gây tê ngoài màng cứng, kẹp forceps hay sinh chỉ huy và tỉ lệ sinh mổ cũng tăng cao khi bà bầu lớn tuổi .

Tăng biến chứng: với những phụ nữ sinh nở lần thứ nhất khi đã trên 30 tuổi, cần lưu ý thường xuyên đi khám thai định kỳ để phát hiện dị tật và những biến chứng có thể gặp. Bên cạnh đó nên đề phòng một số chứng bệnh hay gặp như: cao huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, dễ có bệnh ở nhau thai (cơ quan cung cấp oxy và nuôi dưỡng thai), tiền sản giật…

Vì vậy, khi phụ nữ lớn tuổi mang thai cần phải đặc biệt theo dõi đến sức khỏe của mình và thai nhi. Cần đi khám định kỳ và theo đúng lịch hẹn để phát hiện sớm các vấn đề như: cao huyết áp, đái tháo đường, tiền sản giật. Việc chuẩn bị sức khỏe thật tốt trước và trong thời gian mang thai, sẽ giúp giảm được phần nào những nguy cơ nêu trên.

Phương Hiếu (Theo Pregnancy for Dummies)

Biện pháp giảm căng đau ngực sau sinh

Các bác sĩ cho biết, căng sữa là một trong những nguyên nhân khiến phụ nữ sau sinh cảm thấy ngực căng đau, và có đến 20% có triệu chứng này.

 Nên cho trẻ bú đều cả 2 vú.

Có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng này. Thứ nhất là sau khi sinh, cơ thể của người phụ nữ đã quá mệt mỏi, ảnh hưởng đến giờ giấc nên cơ thể không cho con bú đúng giờ. Thứ hai là những sản phụ phải mổ sinh thì sau khi sinh, vết mổ sẽ gây đau, làm cho chị em không kịp thời cho con bú được.

Tuy nhiên, bất kể là do nguyên nhân nào làm cho ngực bị căng sữa khiến cho ngực bị đau tức thì chị em đều phải hết sức chú ý. Bởi vì ngực căng đau sẽ làm ức chế sự bài tiết của sữa, làm cho lượng sữa ít đi, khiến cho người mẹ không có đủ sữa cho con bú. Ngoài ra, bị tắc sữa cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến viêm tuyến sữa. Vì vậy, một việc hết sức quan trọng là phải kịp thời phòng tránh tắc sữa.

Các bác sĩ đã đưa ra lời khuyên cho những phụ nữ mới sinh hai biện pháp không cần dùng thuốc:

-Nếu khi mới sinh xong mà ngực đã căng đau thì phải kịp thời áp dụng biện pháp chữa trị, mà chủ yếu là chườm nước nóng. Đây được coi là một biện pháp giảm đau rất tốt. Nên lấy túi nước nóng khoảng 40-50oC chườm trong khoảng 10-15 phút, cách 4 giờ lại chườm một lần, cho đến khi cảm thấy đỡ căng đau thì thôi.

-Vắt bớt sữa cũng là một biện pháp giảm căng đau rất tốt, thường là sau khi đỡ căng đau, lấy vú cao su hút bớt sữa đi.

DS. KIM CHUNG

(Theo Tạp chí Sức khỏe Nga)

Để phát hiện sớm dị tật ở thai nhi

Thai nghén luôn luôn là niềm mong ước của các cặp vợ chồng trẻ đang muốn có con, nhất là với những cặp vợ chồng hiếm muộn. Tuy nhiên thai nghén và sinh đẻ cũng là mối lo lắng cho các cặp vợ chồng và gia đình họ. Làm thế nào để có những đứa trẻ khỏe mạnh; Làm thế nào để "mẹ tròn con vuông"... là những câu hỏi thường trực của thai phụ trong suốt chín tháng mười ngày. Hiện nay, với các phương tiện thăm dò và xét nghiệm hiện đại, các thầy thuốc chuyên khoa có thể giúp cặp vợ chồng trả lời hầu hết các câu hỏi đó.

Lợi ích của các chẩn đoán trước sinh

Ở nước ta hiện nay, tại các cơ sở điều trị sản khoa tuyến trung ương và một số bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh đã có thể thực hiện được các phương pháp thăm dò phát hiện dị tật thai trước đẻ sau đây:

- Sàng lọc bằng siêu âm ít nhất ba lần: Lần đầu: tuổi thai từ 11 - 13 tuần; Lần 2: tuổi thai từ 18 - 22 tuần; Lần 3: tuổi thai từ 28 - 32 tuần. Tốt hơn cả là dùng máy siêu âm ba chiều.

Siêu âm kiểm tra tình trạng của thai nhi.
Với ba lần làm siêu âm chẩn đoán, có thể phát hiện hầu hết các dị tật bẩm sinh cả trong nội tạng và bên ngoài như tim bẩm sinh, đảo ngược phủ tạng, thoát vị cơ hoành, não úng thủy, thoát vị rốn, thoát vị bàng quang, sứt môi, tay chân khoèo, chi báo biển (do thalidomit). Làm siêu âm với tuổi thai 13 tuần trở đi, nếu thấy lớp da vùng gáy dày hơn bình thường có thể nghĩ đến thai nhi bị hội chứng Down (tất nhiên cần làm thêm các xét nghiệm về sinh hóa và nhiễm sắc đồ mới có thể khẳng định chắc chắn).

- Xét nghiệm sinh hóa máu bà mẹ với ba xét nghiệm (triple test) là bê-ta hCG, anpha fetoprotein và estriol để xác định nguy cơ bị dị tật thần kinh (vô sọ, hở đốt sống) hoặc nguy cơ rối loạn thể nhiễm sắc (tam bội thể 21 hoặc 18).

- Chọc hút nước ối khi tuổi thai 20 tuần để xét nghiệm sinh hóa, nuôi cấy tế bào làm nhiễm sắc đồ phát hiện các bệnh di truyền rối loạn thể nhiễm sắc...

- Sinh thiết gai rau...

Những trường hợp nào cần chẩn đoán trước sinh?

Khi có thai, không ai có thể chắc chắn thai nhi trong bụng mẹ sẽ hoàn toàn bình thường. Ngay cả với các cặp vợ chồng còn trẻ, khỏe mạnh, đã từng sinh con bình thường cũng vẫn có nguy cơ sinh con dị tật, có điều tỷ lệ này thấp (khoảng 1-2% số trẻ sơ sinh). Vì thế nếu có điều kiện thì nên thực hiện chẩn đoán trước sinh cho mọi trường hợp thai nghén. Điều này được đặc biệt lưu ý đối với những trường hợp thai nghén có nguy cơ sau đây:

- Bà mẹ từ 35 tuổi trở lên: các nghiên cứu đã cho thấy các bà mẹ từ tuổi này trở đi, càng lớn tuổi thì tỷ lệ sinh con bị dị tật các loại càng nhiều, đặc biệt là các bệnh do rối loạn thể nhiễm sắc như bệnh Down (tam bội thể số 21).

- Bà mẹ đã từng sinh con dị tật lần thai nghén trước.

- Trong gia đình (cả bên chồng cũng như bên vợ) có người đã sinh con bất thường.

- Những cặp vợ chồng có nguy cơ do tiếp xúc nhiều và lâu dài với hóa chất độc hại như chất dioxin trong chiến tranh, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, các thuốc đã biết có thể gây ảnh hưởng cho thai (như thuốc an thần thalidomit), thuốc hoặc tia xạ chữa ung thư... Có tài liệu đã cho biết nếu dùng thuốc điều trị có corticoid từ 1 tháng trước khi có thai đến 3 tháng đầu của thai nghén thì tỷ lệ sứt môi của trẻ sơ sinh tăng hơn 5 lần so với nhóm các bà mẹ không dùng thuốc.

Các thuốc thuộc nhóm aminoglycoside (streptomycin, gentamycin...) có thể gây hư hại thần kinh thính giác của thai, gây điếc bẩm sinh và do điếc, trẻ lớn lên cũng bị câm luôn.

Mỗi cơ quan, bộ phận của thai nhi cũng có mức độ nhạy cảm đối với các loại thuốc mà bà mẹ sử dụng ở các tuổi thai khác nhau, ví dụ ở mắt từ tuần thứ 4 đến 8; tim từ tuần thứ 3 - 6; thần kinh từ tuần 3 - 5; tay chân từ tuần 4 - 7; răng - miệng từ tuần 7 - 8; tai từ tuần 4 - 9 và bộ phận sinh dục ngoài từ tuần 7 - 9... Từ 12 tuần trở ra, các cơ quan, bộ phận của thai đã được tạo hình hoàn chỉnh thì các yếu tố gây dị tật không còn tác động nữa nhưng thai vẫn có thể bị nhiễm độc do thuốc hoặc nhiễm khuẩn, nhiễm virut hoặc ký sinh trùng (như sốt rét chẳng hạn) từ người mẹ.

- Những phụ nữ bị sốt do nhiễm virut như cúm, sởi, quai bị, đặc biệt bị nhiễm virut Rubella trong thời gian ba tháng đầu tiên mang thai là giai đoạn phôi đang phát triển việc hình thành và hoàn thiện các cơ quan, bộ phận trong cơ thể. Các yếu tố bệnh lý nói trên tùy loại có thể gây dị tật cho một số cơ quan, bộ phận cơ thể của thai.

Như vậy với những cặp vợ chồng có nguy cơ nêu ở phần trên, khi có thai nên đến các cơ sở y tế sản khoa tuyến tỉnh hoặc tuyến trung ương để được thăm khám và làm các xét nghiệm cần thiết. Nếu không phát hiện điều gì bất thường thì có thể yên tâm chờ đợi cháu bé lành lặn ra đời; trường hợp không may nếu phát hiện thai có vấn đề bất thường sẽ được các thầy thuốc chuyên khoa tư vấn và hội chẩn đưa ra cách xử trí phù hợp nhất và cũng sẽ tư vấn đầy đủ cho thai phụ và gia đình về thai nghén những lần sau.

BS. Phó Đức Nhuận

Phụ nữ có thai cần cảnh giác với dịch cúm A (H1N1)

Kể từ khi WHO tuyên bố dịch cúm A (H1N1) chuyển từ cấp độ 4 sang cấp độ 5, đã có nhiều lo lắng cho rằng, loài người có thể đang đứng trước một đại dịch lây lan ra toàn cầu một cách nhanh chóng. Vậy bản chất của virut H1N1 là gì và ảnh hưởng đến thai nghén như thế nào?

Bệnh dịch cúm A (H1N1) bắt đầu bằng một nam giới ở Mexico bị viêm phổi cấp với các triệu chứng ho, sốt khó thở và bệnh nhanh chóng lây nhiễm cho những người khác rồi nhanh chóng tràn sang Mỹ với ca tử vong đầu tiên ở bang Texas (Hoa Kỳ) là một em bé 23 tháng tuổi, người Mexico, rồi bệnh vượt biên giới 2 nước này gây dịch cho thế giới. Tổng Giám đốc WHO, bà Margaret Chan đã khuyến cáo: "Loài người đang thực sự phải đối mặt với đại dịch, mọi biện pháp được tiến hành khẩn cấp". WHO đã đặt mức độ báo động cấp số 5, và đang xem xét chuẩn bị công bố báo động cấp 6, cấp cao nhất của dịch bệnh nghĩa là mức độ nguy hiểm cao nhất vì bệnh phát tán nhanh, rộng mang tính toàn cầu và mức độ gây bệnh nặng nề, khó điều trị, nguy cơ tử vong cao. Ban đầu các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) đã thấy loại virut này nằm trong gia đình virut H5N1, là sự tổng hợp của các loại virut gây bệnh ở người, lợn, gia cầm và chim nên gọi ngắn gọn là bệnh "cúm lợn". Trung tâm này cũng khẳng định rằng: virut không có nguy  cơ lây nhiễm từ việc ăn thịt lợn nhưng có khả năng truyền từ người sang người. Như vậy, bản chất virut mà tính chất gây bệnh cũng tương tự như bệnh SARS (gây viêm đường hô hấp cấp như vài năm trước đây). Bệnh cũng lây nhiễm trực tiếp người sang người, nhưng ban đầu người ta gọi là virut cúm lợn gây sự hiểu nhầm cho rằng lợn là vật chủ trực tiếp gây bệnh nên đã không ăn thịt lợn thậm chí dẫn tới cực đoan như Ai Cập đã tiêu hủy 300.000 con lợn để ngăn ngừa dịch. Tuy nhiên người ta cũng nhấn mạnh rằng khi ăn thịt lợn đã qua xử lý với nhiệt độ trên 70oC thì đảm bảo an toàn. Theo PGS.TS. Nguyễn Trần Hiển, Giám đốc Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, đây là loại virut hoàn toàn mới, có 4 vật liệu di truyền bao gồm các yếu tố di truyền của cúm lợn ở Bắc Hoa Kỳ, của cúm lợn ở châu Á, cúm gia cầm và cúm người. Hiện nay loại virut này gọi là cúm A (H1N1).

 Khả năng chống đỡ với bệnh tật ở phụ nữ có thai giảm nên dễ mắc cúm hơn người khác.
Khoa học  đã khẳng định rằng, virut cúm liên tục biến đổi cấu trúc theo thuyết "trôi dạt kháng nguyên" để tồn tại. Đó là sự biến đổi một cách từ từ về cấu trúc gen để tồn tại và thích nghi với môi trường mới cũng như kháng lại các hoá chất hoặc kháng sinh. Một điều quan ngại nhất cho khoa học là hiện tượng biến đổi kháng nguyên xảy ra khi có sự kết hợp ít nhất 2 hoặc nhiều chủng cúm khác nhau cùng xâm nhập vào một tế bào của cơ thể, tạo thành một loại virut mới (sub type) có chung những đặc điểm của virut cúm mà loài người đã biết nhưng lại xuất hiện những đặc điểm mới, gây bệnh nặng nề, nguy hiểm hơn và mức độ kháng thuốc cao hơn so với các loại virut cúm cũ làm khó khăn hơn trong quá trình phát hiện, điều trị cũng như sản xuất kháng sinh đặc hiệu và vaccin dự phòng. Hiện nay, người ta cũng đang nghi ngờ loại virut H1N1 đang lưu hành mang yếu tố gây bệnh cho người, lợn và gia cầm này có lẽ bắt nguồn từ một biến đổi kháng nguyên như đã nói ở trên và như vậy thực sự là một lo ngại cho y học và cộng đồng về điều trị và dự phòng. Một điều lo ngại nữa là đối với các loại virut cúm khác thường gây tử vong cho những người già yếu và trẻ nhỏ thì loại virut H1N1 lại gây tử vong cho nhiều trường hợp là thanh niên khỏe mạnh, những người có khả năng kháng lại bệnh tật cao và nếu đúng như vậy thì khó khăn về điều trị và phòng bệnh lại càng khó khăn hơn và đương nhiên tỷ lệ tử vong do bệnh cũng tăng cao. Người ta cũng đang lo ngại nếu có sự kết hợp giữa virut HIV với virut cúm A (H1N1) sẽ tạo ra một chủng virut mới thì nhân loại không thể tưởng tượng được mức độ tác hại đến nhường nào.

Triệu chứng lâm sàng khi bị bệnh là hội chứng viêm đường hô hấp bao gồm sốt trên 38oC, viêm long đường hô hấp, đau họng, ho khan hoặc có đờm. Ngoài ra, có thể có các triệu chứng khác như đau đầu, đau cơ, mệt mỏi, nôn, tiêu  chảy. Nhiều trường hợp có biểu hiện viêm phổi nặng, thậm chí suy hô hấp cấp và suy đa tạng. Hiện nay có thể sử dụng tamiflu và rerenza để điều trị khi bị bệnh.

Những người có nguy cơ mắc bệnh cao là những người có tiếp xúc với nguồn bệnh đã được xác định, xét nghiệm dương tính với cúm A nhưng không xác định được týp nào. Khi đó được xác định là mắc cúm A (H1N1), bệnh nhân phải được cách ly và thông báo kịp thời cho cơ quan y tế dự phòng, dùng thuốc kháng virut đơn độc hoặc kết hợp càng sớm càng tốt, kể cả các trường hợp nghi ngờ. Tất cả người bệnh, người nghi ngờ mắc đều phải mang khẩu trang y tế ở trong buồng và bên ngoài buồng bệnh. Hiện nay chưa có vaccin đặc hiệu vì vậy các biện pháp phòng ngừa thông thường:

- Che miệng khi ho hoặc hắt hơi bằng khẩu trang, khăn tay hoặc tay áo.

- Giữ gìn vệ sinh cá nhân. Rửa tay thường xuyên với xà phòng và tránh chạm tay vào mặt. Giặt quần áo bằng xà phòng hoặc nước sôi, dung dịch tẩy trùng nhẹ.

- Tránh xa những người bị bệnh.

- Đi khám nếu bạn sốt, ho, đau họng, đau người, đau đầu, ớn lạnh và mệt mỏi.

- Tránh tiếp xúc với đám đông và tránh tụ họp đông người khi đã có dịch, mang khẩu trang thường xuyên.

Đối với những người có thai càng cần phải chú ý nhiều hơn vì bản thân khi có thai, người phụ nữ bị giảm miễn dịch, khả năng chống đỡ với bệnh tật bị giảm nên dễ mắc bệnh hơn, nếu bị nhiễm virut cúm A (H1N1) thì càng nguy hiểm hơn, vì bệnh nặng hơn, khó điều trị và không chỉ ảnh hưởng đơn thuần đến thai phụ mà còn dẫn đến kết quả xấu cho thai nhi như sốt cao là dễ sảy thai, đẻ non; khó thở do viêm phổi, thiếu ôxy làm cho  thai nhi bị suy trong tử cung dẫn đến thai chết lưu, trẻ đẻ non, thiếu tháng, nhẹ cân, làm tăng tỷ lệ tử vong và bệnh tật.

Hiện nay, Việt Nam chưa phát hiện bệnh nhân bị nhiễm virut cúm A (H1N1), tuy nhiên nếu không cần thiết, thai phụ tránh tiếp xúc với người đang hoặc nghi ngờ bị cúm, thường xuyên mang khẩu trang. Nếu có dấu hiệu cúm, cần phải mang khẩu trang, đến  khám tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe sinh sản hoặc khoa truyền nhiễm để được khám và tư vấn cũng như có biện pháp can thiệp thích hợp vừa hạn chế ảnh hưởng cho thai phụ và thai nhi cũng như cho cộng đồng. Không phải kỳ thị nhưng mọi người cần phải có ý thức tự giác và trách nhiệm bản thân với cộng đồng để dự phòng và khắc phục hậu quả nếu như có dịch cúm H1N1 xảy ra.

PGS.TS. Vương Tiến Hòa

Một số cách giảm nôn mửa khi có thai

Khoảng một nửa số phụ nữ ở thời kỳ đầu có thai, sau khi ngừng kinh nguyệt được 6 tuần sẽ cảm thấy đầu váng, người mệt mỏi, buồn ngủ, ăn uống kém, có một số người có hiện tượng thèm ăn những thứ khác thường, một số người còn có thể buồn nôn và nôn mửa.

Hiện tượng buồn nôn và nôn mửa thường phát sinh vào lúc sáng sớm, khi chưa ăn gì, không ngửi được mùi dầu mỡ...

Tất cả những hiện tượng trên đều thuộc phản ứng sinh lý khi có thai, trong ba tháng đầu rồi tự hết, không ảnh hưởng đến sức khỏe và không cần phải điều trị. Thật ra, nôn mửa là một dấu hiệu tốt của một bào thai khỏe mạnh. Một phụ nữ bị nôn mửa trong những tháng đầu của thời kỳ thai nghén thường ít bị sảy thai hoặc sinh non. Tuy nhiên có một số ít phụ nữ có thai buồn nôn và nôn mửa nhiều lần, kéo dài, đó là tình trạng nôn mửa dữ dội khi có thai. Nếu để kéo dài sẽ gây hậu quả nghiêm trọng.

 Cần  nghỉ ngơi, tránh làm việc căng thẳng. Ảnh minh họa

Nôn mửa khi có thai nếu nhẹ thì người phụ nữ có thai thường xuyên nôn và buồn nôn, không muốn ăn nhưng vẫn ăn được cho nên thể trọng giảm không nhiều nhưng người mệt mỏi rã rời, mất ngủ, bí đại tiện. Người bị nặng thì nôn mửa rất nhiều, kể cả khi không ăn, những thứ nôn ra chủ yếu là niêm mạc và nước bọt, có khi chứa cả dịch mật hoặc huyết dịch, thể trọng giảm sút, toàn thân rã rời, miệng khát, da và niêm mạc khoang miệng khô táo, hạ huyết áp, lượng nước tiểu giảm thiểu...

Nguyên nhân gây ra nôn mửa dữ dội khi có thai đến nay vẫn chưa rõ nhưng thường thấy ở những phụ nữ có công năng thần kinh không ổn định, tinh thần quá căng thẳng.

Để giảm bớt sự nôn mửa, bạn nên:

- Ăn nhiều trái cây có chứa đường glucose như cam, nho...

- Ăn những thức ăn thanh đạm, dễ tiêu, những thức ăn cô đặc, giàu hợp chất đường, prôtêin và vitamin như bánh ga tô, cháo sữa đậu nành, sữa bò, trái cây, kiêng thức ăn chiên, xào có nhiều dầu mỡ.

- Ăn vài cái bánh nhạt và uống một ly nước buổi sáng trước khi bước xuống giường, tiếp tục ăn mỗi 2, 3 giờ cho đến lúc đi ngủ để giữ mức đường trong máu đừng hạ quá thấp.

Ngoài ra cần chú ý nghỉ ngơi, tránh làm việc căng thẳng, tránh mọi kích thích không tốt, tạo tâm lý vui vẻ, thoải mái...

Nếu tình trạng bệnh không có chuyển biến tốt cần phải đi khám bác sĩ để có biện pháp điều trị hiệu quả.            

Bác sĩ  Quang Dũng

Thực đơn tết cho phụ nữ mang thai

Một thực đơn ngày tết cho thai phụ vừa dễ chế biến, ăn ngon miệng mà còn cung cấp đủ nguồn dinh dưỡng cho cả mẹ và con, rất giản tiện mà chất lượng lại kỳ diệu đến tuyệt vời. Tùy chọn lựa thay đổi trong các bữa ăn trong các bữa ăn trong ngày Tết sao cho tiện lợi mà tăng thêm phần vui vẻ, giữa khí xuân ấm áp, tràn đầy niềm vui...

Cá lóc chưng tương

Nguyên liệu gồm: cá lóc 1.000g, đậu tương hạt 50g, gừng củ tươi nửa củ, đường 1 thìa cà phê, dầu ăn, hành lá lượng vừa đủ chế biến.

Cách chế biến, sử dụng: cá lóc xát muối làm sạch, gừng gọt bỏ vỏ thái sợi, tương hạt pha với nước đường, tất cả cho vào hấp cách thủy chừng 30 phút, cho hành lá phi với dầu ăn lên trên, mang ra ăn với cơm. Đây là món ăn khá hấp dẫn, món cá lóc chưng tương vừa thơm ngon lại bổ dưỡng. Trong món này, cá lóc vừa giàu đạm, ít mỡ lại phối hợp với đậu tương làm tăng hứng thú ăn cho thai phụ. Là loại đậu chứa nhiều albumin, leucithin, sắt, canxi, vitamin B1, B2, acidnicotic... nếu thường xuyên ăn đậu tương hay uống sữa đậu nành hằng ngày sẽ làm cho da dẻ nõn nà, tinh lực dồi dào, hình thể khỏe, đẹp.

Cocktail dâu

Nguyên liệu gồm: yaourt 2 hủ, ổi chín 2 quả, cam 1 quả, dâu đỏ 5 quả, nho 10 quả.

Cách chế biến, sử dụng: rửa sạch, gọt bỏ vỏ ổi, thái miếng; cam, nho, bóc bỏ vỏ và hạt; dâu đỏ rửa sạch để ráo nước. Sau cùng cho ổi, cam, nho, dâu trộn đều cùng yaourt cho vào tủ lạnh hoặc có thể ăn ngay cũng được. Đây là món ăn vừa ngon mát, bồi bổ cơ thể bởi nhiều thành phần hợp lại như: thịt quả nho có thể dưỡng thân, tăng sức khỏe, bổ máu, trợ tim, lợi tiểu, có thể trị đau lưng, trợ - trị đau dạ dày, huyết hư, tim nhịp nhanh, mạnh... Người ta còn lấy quả nho 20g, sắc uống 2 lần trong ngày để trị phụ nữ mang thai bị tức ngực, đứng ngồi không yên. Còn ổi giàu vitamin C giúp tăng cường sức đề kháng. Đặc biệt lại có quả dâu bổ gan, thận nên người ta đã sử dụng ăn quả dâu để trị bệnh gan, thận mãn tính, chống táo bón...

Còn cam là loại giàu vitamin C chống các phần tử gốc tự do, chống oxy hóa, lại tác dụng kiện tỳ, hòa vị, ấm phổi, trị ho, tẩm bổ cơ thể... Yaourt cũng là thứ bổ dưỡng có tác dụng bồi bổ cơ thể.

 Ảnh: corbis

Thịt lợn sốt cam

Nguyên liệu gồm: cam 1 quả, thịt lợn nạc thăn 200g, bột ngô 10g, cùng nõn hành lá ta, đường, nước mắm, dầu ăn vừa đủ.

Cách chế biến, sử dụng: cam rửa sạch để ráo nước, cắt ngang quả vắt kiệt nước, gạt bỏ hết hạt. Thịt nạc thăn có thể thái sợi hay thái miếng mỏng rồi ướp cùng chút nước mắm và nõn hành cắt khúc, chút đường. Khi bắc chảo lên bếp nổi lửa to, chảo nóng đổ dầu rán vào, cho nõn hành đã cắt khúc phi thơm thì thả thịt nạc thăn đã thái vào chảo đảo đều nhanh tay, rồi cho ra đĩa. Còn bột ngô cho vào nửa bát nước ăn cơm, thêm ít đường và nước mắm. Sau đó lại phi thơm nõn hành với dầu ăn và cho nước bột ngô, khuấy đều vào chảo, đảo nhanh tay bột ngô khoảng 2 phút thì bắc xuống, pha nước cam đã vắt sẵn.

Khi ăn rưới thêm nước thịt. Trong món ăn này ta thấy có thịt lợn nạc thăn là loại thịt ngon, mềm và có độ đạm cao lại lành tính và có tính lạnh, vị mặn đi vào can, thận. Còn cam cũng là món ăn bổ dưỡng có vị ngọt, chua, chứa nhiều vitamin C có tác dụng làm tăng cường sức đề kháng của hệ miễn dịch trong cơ thể... Bột ngô cũng có vị ngọt, tính bình, tăng cường khả năng tiêu hóa cho dạ dày, ruột, lợi thủy, ngô rất giàu dinh dưỡng như đạm (chiếm từ 7-12%) và chứa nhiều vitamin hơn cả gạo, đặc biệt là vitamin E, vitamin nhóm B (B1, B2, B6) có lợi cho phụ nữ đang mang thai, chất lysine chiếm từ 1,8-4,45mg, triptophan 0,4- 1,0%... Hoặc hành cũng là vị thuốc có tính ấm, vị cay, thông dương, lợi khí…

Giò nóng khía mè đen

Nguyên liệu gồm: thịt giò lợn 100g, mè đen (vừng đen, hắc chi ma), nấm tuyết 2 tai, bún tàu 1 lọn, nước mắm và đường trắng mỗi thứ nửa thìa cà phê, cùng với hành lá, tỏi, dầu ăn vừa đủ.

Cách chế biến, sử dụng: giò lợn (chân giò lợn) rửa sạch cho ướp với nước mắm, đường, hành lá cắt khúc, xắt nhuyễn. Nấm tuyết, bún tàu ngâm nước cho nở mềm. Bắc bếp đặt chảo chờ nóng cho dầu ăn vào phi thơm hành, tỏi. Sau đó, cho giò lợn cùng mè đen vào chiên vàng. Đổ ngập nước, hạ lửa nhỏ riu riu trong khoảng 30 phút thì cho nấm tuyết và bún tàu vào. Tắt bếp, bắc ra ăn nóng rất thơm ngon.

Đây là món ăn khá tuyệt và rất giàu dinh dưỡng. Mặt khác lại có vị mè đen hợp cùng là loại có vị ngọt, tính bình, vào kinh can, thận. Trong mè đen có protein chiếm từ 20-22% cùng nhiều khoáng chất, các yếu tố vi lượng, vitamin E, acid folic, vitamin PP, chất leucithin… lại tác dụng bổ ích tinh huyết, nhuận táo, hoạt trường, giảm kích thích, chống viêm... thì thật là phù hợp cho người đang mang thai. Ngoài ra, nấm tuyết cũng có vị ngọt, tính bình, tác dụng nâng cao khả năng miễn dịch trong cơ thể, phòng trị bệnh ung thư...

Gà hầm tam thất

Nguyên liệu gồm: thịt gà 200g, tam thất 4g, câu kỷ tử 3g, táo tàu 3 quả, gừng sống 1 củ, cùng các vị muối, tiêu, nước dùng vừa đủ.

Cách chế biến, sử dụng: rửa sạch thịt gà, ướp cùng tiêu, muối. Gừng gọt bỏ vỏ ngoài, thái sợi. Táo tàu, tam thất, câu kỷ tử rửa sạch. Sau đó lót cho gừng, tam thất, câu kỷ tử dưới đáy thố, đặt gà lên trên, đổ nước dùng ngập gà, cho vào nồi đổ vừa nước hấp cách thủy, đun nhỏ lửa trong 2 tiếng là được. Mang thố ra ăn cả cái, uống nước.

Xét các vị chính chứa trong món ăn này ta thấy, vị tam thất, bộ phận dược dụng là rễ củ khô, có tính ấm, vị ngọt hơi đắng, đi vào can, vị. Công năng của thuốc có thể thay nhân sâm (là loại đại bổ nguyên khí), còn dùng trong trường hợp chảy máu do thương tích ứ huyết, sưng đau, phụ nữ sau sinh bị xây xẩm chóng mặt (bổ khí huyết)... Còn thịt gà là loại giàu đạm (thịt gà nạc chiếm 25% đạm), song thịt gà có tính ấm, vị ngọt, công năng bổ hư ấm trong, trị mệt mỏi lâu ngày. Câu kỷ tử bộ phận dược dụng là quả chín phơi khô, tính bình, vị ngọt, vào phế, can, thận, được sử dụng trong can, thận, âm hư, chân tay mỏi mệt... Vị táo tàu còn gọi là táo đen, táo đỏ, phần dược dụng là cùi thịt quả táo chín phơi khô hoặc sấy khô, có tác dụng tẩm bổ. Táo tàu tính ấm, vị ngọt, có công năng bổ tỳ, vị, nhuận tâm phế, điều hòa dinh vệ, lại hòa được cùng với bách dược... Hay gừng tươi, tính ấm, vị cay vào phế, vị, trị ngộ độc, đầy bụng...

BS. Hoàng Xuân Đại

(BS. Hoàng Xuân Đại)

Phòng tránh viêm lợi khi mang thai

Phụ nữ mang thai có nguy cơ bị viêm lợi caon hơn bình thường. Triệu chứung này có thể xuất hiện từ tháng thứ 2 của thai kỳ và kéo dài tới tận 6 tháng sau sinh. Dưới đây là những cách để bạn có thể khắc phục tình trạng này.

Biểu hiện

Lợi bạn bị sưng đỏ, dễ chảy máu, nhất là khi bạn đánh răng. Bạn có thể thấy xuất hiện thêm các dấu hiệu khác như: hôi miệng, ngứa và đau lợi. Viêm lợi thường được chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn đầu: lợi đột nhiên bị sưng phồng, dễ chảy máu (nhất là khi đánh răng). Giai đoạn này lợi có thể bị sưng đau nhưng răng vẫn bám chắc trong chân răng. Bạn không có tổn thương răng miệng nào khác.

Giai đoạn cuối: nếu lợi bị viêm trong thời gian dài mà không có cách điều trị phù hợp, lớp lợi bên trong và xương hàm bị xô vào phía sau, tạo thành một lỗ hổng cạnh chân răng. Khi ấy, các lỗ hổng này sẽ là nơi tích tụ thức ăn thừa và vi khuẩn gây nên tình trạng nhiễm trùng chân răng. Lợi sẽ bị sưng viêm nghiêm trọng khiến bạn bị đau nhức, sưng má, miệng có mùi hôi khó chịu. Lâu ngày, lợi sẽ bị tụt xuống làm chân răng của bạn bị lộ ra, trông rất mất thẩm mỹ. Không những thế, khi lợi yếu đi, răng không còn chỗ bám nữa sẽ bị lung lay, cuối cùng là bị rụng.

 Nên đánh răng tối thiểu 2 lần/ngày.
Nguyên nhân

Do vi khuẩn phát triển trong mảng bám răng (một màng mỏng, bám vào bề mặt răng, thành phần gồm vi khuẩn, chất nhầy và vụn thức ăn). Do thay đổi các hormone trong thời kỳ thai nghén, làm giảm khả năng miễn dịch của lợi đối với vi khuẩn. Mức độ viêm lợi nặng hay nhẹ phụ thuộc vào tình trạng lợi của bạn trước lúc mang thai. Nhiều người cho rằng, bị viêm lợi khi mang thai là điều không thể tránh khỏi nhưng bạn hoàn toàn có thể phòng tránh được triệu chứng khó chịu này ngay từ đầu.

Phòng tránh viêm lợi khi mang thai

Nên khám nha khoa định kỳ mỗi năm kể cả lúc bạn chưa có thai, vì viêm lợi là chứng bệnh thường gặp ở bất kỳ độ tuổi nào. Trước khi có kế hoạch mang thai, bạn nên đi khám sức khỏe tổng quát, nhất là sức khỏe răng lợi để bác sĩ chữa trị dứt điểm việc viêm lợi (nếu có) của bạn. Nên đánh răng tối thiểu 2 lần/ngày, sáng sớm khi ngủ dậy và buổi tối trước khi đi ngủ. Sử dụng bàn chải mềm, chất liệu tốt để không gây tổn thương cho lợi. Có thể sử dụng thêm nước súc miệng và chỉ nha khoa để vệ sinh răng miệng mỗi ngày. Thay mới bàn chải sau mỗi lần bạn bị ốm: virus có thể cư trú trong bàn chải khi bạn bị ốm và khiến lợi bạn bị viêm sưng sau đó.

Ăn sữa chua và các loại thực phẩm giàu acid lactic có thể ngăn ngừa được chứng viêm lợi. Tuy nhiên, các loại sữa và phomai thông thường lại không có khả năng phòng ngừa được chứng bệnh này. Không nên đánh răng trong vòng 30 phút sau khi bị nôn, do các acid từ dạ dày lúc này có thể bám vào bàn chải và ăn mòn men răng khi bạn đánh răng trong những lần tiếp theo. Nếu phải đánh răng ngay trong trường hợp này, tốt nhất bạn nên thay mới bàn chải cho lần đánh răng sau.

Nên súc miệng bằng nước muối pha loãng hay nước súc miệng chứa fluor để làm mát và bảo vệ men răng sau khi bạn bị nôn.

Khắc phục khi bị viêm lợi

Đánh răng nhẹ nhàng: lợi sẽ trở nên nhạy cảm hơn khi bị viêm. Vì vậy, bất kỳ một tác động mạnh nào khi bạn đánh răng cũng khiến lợi bạn bị chảy máu và đau. Bàn chải điện có khả năng quét sạch mảng bám nên ngăn ngừa các bệnh về răng miệng tốt hơn bàn chải thường. Hạn chế các loại bánh kẹo ngọt, nước hoa quả chứa đường. Nên uống nước lọc thường xuyên thay cho nước hoa quả.

Hạn chế các loại đồ ăn cay nóng như: ớt, gừng… hay các loại đồ uống có cồn như: bia, rượu…

Súc miệng hay đánh răng ngay sau khi ăn, nhất là khi bạn ăn đồ ngọt. Nên đi khám bác sĩ khi bạn bị viêm lợi trong thời gian mang thai để tìm ra cách chữa trị thích hợp. Tốt nhất bạn nên đi đến khám tại các trung tâm nha khoa có uy tín.

Điều trị

Thông thường nếu nguyên nhân gây viêm lợi là do vi khuẩn trong mảng bám răng, bạn phải đến phòng khám để bác sĩ lấy sạch cao răng. Nếu bạn bị nặng, chảy máu lợi nhiều thì bác sĩ sẽ cho bạn sử dụng thuốc kháng sinh. Lưu ý, bạn phải tuân thủ tuyệt đối theo chỉ dẫn của bác sĩ, không tự ý dùng thuốc trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

BS. THU PHƯƠNG

Huyết trắng

Huyết trắng là dịch tiết từ đường sinh dục, có thể gặp trong các giai đoạn khác nhau của nữ (bé gái, thiếu nữ, tuổi hoạt động tình dục, mãn kinh). Huyết trắng có nhiệm vụ bôi trơn, giữ ẩm, ổn định môi trường đường sinh dục nhằm hạn chế sự phát triển của các tác nhân gây bệnh.

Huyết trắng bình thường có màu trắng trong, dai, hơi tanh, giống như lòng trắng trứng. Huyết trắng thay đổi số lượng và tính dai theo chu kỳ kinh nguyệt. Nếu là huyết trắng bệnh lý, do viêm nhiễm đường sinh dục dưới (âm đạo, âm hộ), gây khô, rát, ngứa, có mùi hôi. Tác nhân gây huyết trắng bệnh có thể do nấm men, tạp trùng hoặc trùng roi.

 Ảnh minh họa

Huyết trắng do nấm men thường gây ngứa bộ phận sinh dục ngoài, số lượng ít, màu trắng đục thành mảng dính hoặc đóng cục, không có mùi tanh hôi. Bệnh thường gặp sau khi dùng kháng sinh, có thai hoặc những trường hợp suy giảm miễn dịch.

Huyết trắng do tạp trùng có số lượng trung bình, màu vàng loãng, mùi hôi. Bệnh thường xuất hiện sau khi mới bắt đầu quan hệ hoặc do thao tác thụt rửa vào sâu bên trong ống sinh dục.

Tại vùng sinh dục có rất nhiều vi khuẩn thường trú, vi khuẩn gây bệnh, nấm men cùng sinh sống. Bình thường vi khuẩn thường trú chiếm đa số và chúng sản sinh các chất có lợi cho môi trường ống sinh dục. Khi gặp điều kiện thuận lợi như thói quen thụt rửa vô tình đẩy vi trùng từ ngoài vào hoặc dùng thuốc kháng sinh gây chết các vi khuẩn thường trú... thì các tác nhân gây bệnh sẽ phát triển mạnh gây huyết trắng bệnh.

Cơ địa một số người dễ bị huyết trắng nấm tái phát sau khi dùng kháng sinh uống điều trị cảm, sốt, đau họng... hoặc một lý do nào đó gây thay đổi độ pH trong môi trường ống sinh dục. Vì vậy, để phòng bệnh cần:

- Vệ sinh sạch vùng kín nhưng không dùng dung dịch rửa quá nhiều lần trong ngày vì có thể làm thay đổi độ pH; lau khô bằng khăn sạch hoặc giấy vệ sinh sau mỗi lần rửa.

- Năng thay quần lót, tránh mặc quần ẩm ướt; không nên mặc quần bên ngoài bằng vải dày.

- Giặt sạch quần áo, phơi ra nắng và là nóng bề trái trước khi mặc lại.

Không thụt rửa khi vệ sinh mà chỉ nên rửa nhẹ nhàng bên ngoài vì ống sinh dục có khả năng tự làm sạch bằng cách tạo ra dịch tiết và các nhu động hướng từ trong ra để đẩy các tác nhân gây bệnh ra ngoài nếu có.

Khi có các dấu hiệu mắc bệnh, cần đến khám bệnh tại một cơ sở chuyên khoa để được điều trị thích hợp (điều trị nấm, phối hợp điều trị tạp trùng, và có thể điều trị phòng ngừa nhiễm nấm tái phát hoặc điều trị cả cho chồng của bạn).     

Bác sĩ  Hồng hạnh

Chăm sóc răng miệng ở phụ nữ mang thai

Nhiều phụ nữ mang thai thời kỳ đầu thường bị viêm răng lợi. Nguyên nhân gây bệnh này chủ yếu là phụ nữ sau khi có thai estrogen và progestin tăng nhiều làm cho huyết quản mao dẫn ở răng lợi mở rộng ra, gập cong lại, tính đàn hồi giảm yếu dẫn đến huyết dịch ứ trệ và tính thẩm thấu của thành ống tăng thêm. Đây chính là sự biến đổi về răng lợi do có thai gây nên. Ngoài ra, bệnh này còn có thể do các nguyên nhân như không chú ý vệ sinh khoang miệng, thức ăn tích đọng lại tạo thành mảng bám trên răng, vi khuẩn trong mảng bám răng gây nên viêm lợi; hàm răng không ngay ngắn thẳng hàng đều đặn; hô hấp bằng mồm...

Viêm răng lợi thời kỳ mang thai có hai đặc điểm: Một là tình trạng viêm ngày một nặng hơn cùng với sự tiến triển của thai kỳ. Hai là sau khi sinh, nhau thai bong ra, mức estrogen và progestin hạ thấp, tình trạng viêm nói chung sẽ dần dần tự tiêu tan.

Để phòng và chữa viêm lợi cần đặc biệt chú ý vệ sinh răng miệng, nhất là sau khi ăn bằng cách đánh răng. Bạn nên chọn loại bàn chải mềm, chải răng theo chiều từ chân răng dọc theo kẽ răng, chải nhẹ nhàng để không làm xước lợi, không để bã thức ăn và bựa răng giắt vào kẽ răng. Các bã thức ăn còn để lại trong kẽ răng sẽ lên men và sản sinh ra acid có lợi cho sự sinh trưởng của vi khuẩn. Sau khi vi khuẩn bám vào mặt răng, hình thành các đốm vi khuẩn phá hoại thượng bì của lợi răng làm viêm lợi nặng thêm và có thể gây xuất huyết răng lợi, đồng thời ăn mòn răng dẫn tới sâu răng. Nếu chải bằng bàn chải không làm sạch đước các kẽ răng có thể dùng chỉ nha khoa theo cách sau: lấy một đoạn chỉ nha khoa dài khoảng 40cm, quấn chặt hai đầu chỉ vào hai ngón tay giữa cho tới khi hai ngón tay cách nhau khoảng 10cm. Dùng đầu ngón trỏ tỳ vào sợi chỉ và đưa tới khe răng còn giắt thức ăn, nhẹ nhàng ấn sợi chỉ vào kẽ răng rồi kéo ngang 1cm. Lấy sợi chỉ ra, thức ăn sẽ ra theo sợi chỉ.

Ngoài ra cần chú ý chọn ăn những thức ăn mềm, thức ăn đã được nấu nhừ, ít phải nhai nhiều để tránh tổn thương răng lợi và giúp dễ tiêu hóa. Nên ăn nhiều trái cây và rau xanh tươi giàu vitamin C, hoặc uống bổ sung vitamin C để hạ thấp tính thông thấu của thành huyết quản mao dẫn.

Bác sĩ Thu An

(Bác sĩ Thu An)

Biến chứng của nạo phá thai

Thống kê cho thấy nạo phá thai là nguyên nhân của 5% số ca tử vong ở sản phụ. Ngoài ra, các thủ thuật này dễ dẫn đến thủng tử cung, băng huyết, tổn thương cổ tử cung hoặc âm đạo, tai biến do dùng thuốc gây mê, gây tê. Các tai biến xuất hiện muộn hơn là sót thai, sót nhau, nhiễm trùng, chấn thương tâm lý (có người bị trầm cảm), nhiễm trùng gây viêm dính buồng tử cung dẫn đến vô sinh...

 Ảnh minh họa (ảnh: Gettyimages)

Những biến chứng của nạo phá thai

Phương pháp nạo phá thai đến nay đã có những cải tiến lớn, tuy vậy vẫn không tránh được việc phải dùng dụng cụ nong bằng kim loại để nong rộng cổ tử cung; dùng que kim loại để dò hướng khoang tử cung và đo độ dài khoang tử cung; dùng ống hút bằng kim loại để hút phôi thai và đế cuống rốn; cuối cùng còn phải dùng muôi nạo bằng kim loại để nạo sạch khoang tử cung. Từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, đều phải dùng dụng cụ bằng kim loại đưa vào đưa ra, tất nhiên có khả năng làm xước tử cung, thậm chí có thể làm thủng cổ tử cung. Nếu như đế cuống rốn không lấy ra được nhanh, sẽ ảnh hưởng đến sự co bóp của tử cung, do đó có thể làm cho các mạch máu không liền lại, trong quá trình thủ thuật đó sẽ bị mất nhiều máu. Vả lại, nếu trước đó, đã có viêm bộ phận sinh dục như viêm âm đạo, viêm cổ tử cung chưa được chữa khỏi, hoặc trong quá trình thủ thuật không nghiêm chỉnh thực hiện vô trùng đúng với quy định, thì những dụng cụ đưa vào đưa ra rất dễ đưa vi khuẩn vào khoang tử cung gây nhiễm trùng. Ngoài ra, việc nạo hút thai còn có khả năng để lại di chứng, nhất là đối với các trường hợp đã qua nạo hút nhiều lần, nguy hại sẽ không nhỏ, có thể xuất hiện các trường hợp sau:

Khoang tử cung bị dính liền: Nếu nạo hút quá mức, lớp đáy màng trong tử cung bị tổn thương, mặt tổn thương đó có thể dính liền lại với nhau sẽ làm ảnh hưởng đến sự vận hành của tinh trùng và làm cho trứng đã thụ thai khó cắm vào, do đó hậu quả thường thấy nhất là không thụ thai được, nếu có thì cũng dễ sảy thai, dẫn đến sự thay đổi về kinh nguyệt. Do mức độ tổn thương của niêm mạc tử cung, nếu tổn thương không nhiều, chỉ có một bộ phận nào đó ở khoang tử cung bị dính, thường chỉ làm giảm lượng kinh nguyệt hoặc gây ra xuất huyết không theo một quy tắc nào. Nếu tổn thương nghiêm trọng, mặt dính ở khoang tử cung rộng, sẽ gây bế kinh lâu dài. Nếu cổ tử cung bị dính, máu hành kinh không ra ngoài được mà chảy ngược vào bụng cũng sẽ gây ra bế kinh lâu dài và đau bụng có tính chất chu kỳ.

Vô sinh có tính kế phát: Sau khi nạo phá thai, không thụ thai lại được nữa, ngoài nguyên nhân dính khoang tử cung đã nói trên, còn có khả năng do ống dẫn trứng bị viêm. Khi làm thủ thuật bị viêm nhiễm, chứng viêm có thể từ nội mạc tử cung lan sang ống dẫn trứng, làm cho khoang ống dẫn trứng bị dính, gây ra tắc; cũng có khả năng do ống limpha và mạch máu ở vách tử cung khuếch tán ra tới tổ chức liên kết cạnh tử cung, làm cho xung quanh ống dẫn trứng viêm, miệng ống dẫn trứng dính vào nhau và kẹt lại. Khi ống dẫn trứng tắc lại do miệng ống dẫn trứng bịt lại, đều cản trở tinh trùng và trứng gặp nhau, tất nhiên không thụ thai được.

Sảy thai hoặc đẻ non: Khi nạo phá thai, nhất là khi nạo, phải dùng đến kìm để lấy thai ra, nếu miệng cổ tử cung bị dụng cụ nới rộng làm rách, thì sau đó, hễ có thai là sau 12 tuần sẽ kết thúc bằng sảy thai.

Nhau thai dính vào: Khi tử cung bị nạo quá sâu hoặc bị nạo hút nhiều lần, nội mạc tử cung bị tổn thương và teo lại. Đến khi có thai tiếp sau đó, nội mạc tử cung do đã bị tổn thương và teo lại nên thường không thể lành lặn lại, phải bong ra lớp màng đáy để tiếp nhận phôi bào cấy vào, màng tử cung bong ra phát dục không tốt, lông tơ ở bên ngoài phôi bào sẽ cấy sâu vào, thậm chí còn xâm phạm tới lớp cơ bên dưới của màng tử cung. Nhau thai được hình thành như vậy khó hoặc căn bản không thể tự nhiên tách ra được khỏi thành tử cung. Kết quả là sau khi sinh con, bộ phận nhau thai dính liền hoặc cấy sâu vào thành tử cung sẽ không thể bong ra được, ảnh hưởng đến sự thu co tử cung, hốc hõm máu ở thành tử cung chỗ bóc tách ra đó mở rộng ra sẽ gây xuất huyết nhiều. Nếu nhau thai dính liền vào thành tử cung còn có thể bóc ra, còn nếu nhau thai cấy sâu vào thành tử cung thì chỉ có cách cắt bỏ tử cung mới giải quyết được.

Hiện có rất nhiều biện pháp tránh thai, bạn hãy áp dụng nếu chưa muốn sinh con. Còn nếu lỡ có thai, nên đến cơ sở y tế có chất lượng nạo phá thai an toàn để giải quyết càng sớm càng tốt nhằm hạn chế các tai biến, biến chứng.

Bệnh viện Phụ sản T.Ư vừa công bố kết quả nghiên cứu trên 154 trường hợp phá thai từ 17 - 22 tuần tuổi, trong năm 2008, kết quả cho thấy có tới 18% phá thai do lựa chọn giới tính. Đáng lưu ý là, hơn 31% các trường hợp phá thai là đối tượng học sinh, sinh viên. Hiện nay, Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá Việt Nam là nước có tỉ lệ phá thai cao nhất châu Á và là một trong 5 nước có tỉ lệ phá thai nhiều nhất trên thế giới. Tính riêng trong  2 năm (2007 - 2008), tại BV Phụ sản TƯ có 11.826 trường hợp phá thai, trong đó 9,1% phá thai to.

Bác sĩ  Quang Dũng

Dinh dưỡng khi mang thai

Dinh dưỡng tốt khi mang thai giữ một vai trò quan trọng giúp bảo đảm sức khỏe cho bà mẹ khi mang thai, khi sinh, và nuôi trẻ sau sinh. Đối với thai, việc mẹ được cung cấp đầy đủ các dưỡng chất sẽ bảo đảm cho thai nhi phát triển tốt và phòng tránh được một số khuyết tật.

Những thay đổi ở phụ nữ mang thai có liên quan đến dinh dưỡng

Khi mang thai, cơ thể người phụ nữ có sự thay đổi trên hầu hết các cơ quan: nhu cầu về năng lượng và các dưỡng chất đều gia tăng, hấp thu ở ruột tăng, thay đổi về chuyển hóa cơ bản, và có một số biểu hiện do sự thay đổi của nội tiết tố trong cơ thể như: chán ăn một hoặc nhiều món ăn, buồn nôn, nôn, ợ nóng, bón. Những thay đổi này ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến sự tăng cân của thai phụ.

 Hoa quả cung cấp nhiều vitamin cho thai phụ.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của thai phụ

Đánh giá sự tăng cân

Mức tăng cân đủ trong suốt thai kỳ được khuyến nghị tại Việt Nam là từ 10-12kg, trong đó:

- 3 tháng đầu: không tăng cân hoặc tăng ít (1kg).

- 3 tháng giữa: 4-5kg.

- 3 tháng cuối: 5-6kg.

Trong 6 tháng cuối, mỗi tháng tăng ít hơn hoặc bằng 1kg là tăng cân ít.

Tăng cân đủ là một yếu tố giúp xác định thai kỳ khỏe mạnh. Tăng cân ít thường gặp ở các thai kỳ bệnh lý hoặc dinh dưỡng kém.

Thai kỳ tăng cân ít: tăng cân ít trong lúc mang thai thường đi kèm với thai chậm tăng trưởng trong tử cung và tỷ lệ tử vong chu sinh cao.

Thai kỳ tăng cân nhiều: tăng cân quá nhiều khi mang thai sẽ dẫn đến tình trạng béo phì sau khi sinh của mẹ và cân nặng của trẻ sơ sinh cao (>4.000g), từ đó đưa đến những khó khăn khi sinh con như: chuyển dạ kéo dài, khó sinh do vai, sinh mổ, chấn thương khi sinh, ngạt, khi mẹ tăng cân quá nhiều đi kèm với cân nặng của trẻ sơ sinh quá lớn thì cũng cần tầm soát đái tháo đường thai kỳ.

Đánh giá khẩu phần ăn: thai phụ trước tiên phải thực hiện theo “10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý” của Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2006 – 2010). Đồng thời xem khẩu phần ăn có tăng so với lúc chưa mang thai hay không? Có uống bổ sung sắt và acid folic đúng thời điểm không?

Nhu cầu dinh dưỡng của thai phụ:

Năng lượng: tổng năng lượng bổ sung cho toàn thai kỳ là 55.000 Kcal, nhằm phục vụ cho việc hình thành một trẻ sơ sinh có cân nặng từ 3-3,4kg, tích tụ 0,9kg protien, 3,8kg mỡ và phục vụ cho các chuyển hóa trong cơ thể thai phụ, cụ thể là mỗi ngày thai phụ cần được cung cấp thêm 350Kcal so với lúc không mang thai.

Chất đạm: các acid amin thiết yếu (histidine, isoleucine, leucine, lysine, methionine, phenylalanine, threonine, tryptophan và valine) phải được cung cấp đủ trong khẩu phần, vì chúng không thể tổng hợp được trong cơ thể. Thai nhi cần số lượng lớn chất đạm để tăng trưởng và tích tụ protein mới. Lượng đạm tăng thêm được khuyến nghị bởi Viện Dinh dưỡng Quốc gia là 15g mỗi ngày. Nguồn đạm tốt cho thai phụ có trong hầu hết là các thực phẩm dùng hàng ngày: thịt, cá, trứng, sữa, pho-mát, ngũ cốc, các loại đậu…

Tăng lượng đạm là cần thiết để duy trì một thai kỳ thành công.

Chất sắt: thiếu máu do thiếu chất sắt là tình trạng thường gặp ở phụ nữ mang thai (30-50%). Hậu quả của thiếu máu thiếu sắt khi có thai là: kết quả thai kỳ kém (không đạt được mẹ tròn con vuông), trẻ sinh ra nhẹ cân, tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng cao ở mẹ lẫn con. Biểu hiện của thiếu máu bao gồm: da xanh, niêm mạc nhợt, cơ nhão, làm việc mau mệt và ưa buồn ngủ.

Sắt là vi chất duy nhất được Tổ chức Y tế Thế giới khuyên nên bổ sung cho phụ nữ mang thai. Liều lượng bổ sung mỗi ngày từ 30-60mg, thời gian bổ sung kéo dài từ khi biết có thai cho đến sau khi sinh 1 tháng. Nên uống viên sắt giữa các bữa ăn với các thức uống không phải là sữa, trà, cà phê.

Thực phẩm giàu sắt bao gồm: các loại thịt, huyết, trứng, gan, tim, các loại rau lá có màu xanh đậm. Sắt có trong thức ăn động vật dễ hấp thu hơn sắt có trong thức ăn thực vật.

Acid folic (vitamin B9): có vai trò quan trọng trong việc phân chia các tế bào, vì vậy ngoài việc tham gia trong quá trình tạo ra tế bào hồng cầu, acid folic còn giữ vai trò quyết định trong việc hoàn thiện ống thần kinh của thai nhi. Hậu quả của thiếu acid folic là khiếm khuyết ống thần kinh gây ra thai vô sọ, thoát vị não - màng não, hở đốt sống, gai đôi cột sống.Vì ống thần kinh của thai nhi được hình thành trong 4 tuần đầu của thai kỳ, nên việc bổ sung acid folic phải được thực hiện ngay từ khi có ý định mang thai cho đến hết 3 tháng đầu của thai kỳ. Liều bổ sung được khuyến nghị là 0,4 0,8mg/ngày. Thực phẩm có nhiều acid folic: thịt bò, gan, giá sống, rau xanh, củ cải, bông cải, đậu nành… Nhưng cần lưu ý là acid folic rất dễ bị hủy bởi nhiệt độ và ánh sáng mặt trời.

Giải quyết những rắc rối thường gặp trong thai kỳ

Buồn nôn, nôn: ăn nhiều bữa nhỏ, không ăn quá no, tránh mùi và các loại thức ăn kích thích nôn ói, giữ tinh thần thoải mái.

Ợ nóng (nóng sau xương ức): ăn nhiều bữa nhỏ, tránh động tác cong người, không nằm ngang, đầu thấp.

Táo bón: duy trì thói quen đi tiêu đúng giờ, ăn nhiều rau, trái cây, uống nhiều nước (trên 2 lít mỗi ngày).

Biếng ăn: ăn nhiều bữa, tạo điều kiện để thai phụ được ăn những món mà họ ưa thích.

Phù: hạn chế đứng nhiều, ngồi nhiều, giảm ăn mặn, nằm, đặc biệt là nằm nghiêng giúp giảm phù.

Trĩ: tránh táo bón, tránh đứng nhiều, nên nằm nghiêng, kê chân cao khi nằm.

Thai kỳ có yếu tố nguy cơ

Những thai kỳ có yếu tố nguy cơ dễ có diễn tiến bất lợi cho mẹ và con, vì vậy cần có sự hướng dẫn, chăm sóc trực tiếp từ bác sĩ. Những yếu tố nguy cơ bao gồm: tuổi dưới 18, chiều cao dưới 145cm, đã sinh trên hoặc bằng 4 lần; những thai kỳ trước có diễn biến bất thường như: băng huyết, sản giật, sinh khó, sinh mổ, con chết tuần đầu sau sinh…; đang có bệnh (tim, phổi, thận), thai kỳ hiện tại có những biểu hiện “bất thường” về tuổi thai, cân nặng mẹ, chiều cao tử cung, ngôi thai, xuất huyết âm đạo….

BS. NGUYỄN VĂN TÚ

Xử trí tăng cân ít khi mang thai:

Tăng năng lượng ăn vào bằng cách: ăn nhiều bữa, ăn các thực phẩm có đậm độ năng lượng cao như: dầu, mỡ, các thức ăn chiên, xào, thức ăn ngọt. Chủ động tránh những thức ăn có mùi khó chịu gây kích thích nôn ói, chuẩn bị sẵn những thức ăn ưa thích, dễ ăn.

Sử dụng các thực phẩm bổ sung: sữa dành cho các bà mẹ mang thai.

Thuốc bổ sung các dưỡng chất: các thuốc được sản xuất bổ sung cho thai phụ thường có thành phần dưỡng chất đạt dưới hoặc bằng 100% nhu cầu khuyến nghị hàng ngày cho phụ nữ mang thai, việc bổ sung mỗi ngày 1 viên không gây ngộ độc.